Có Ma hay không?
Có
Ma hay không có
Ma ?
Ma là gì ?
Ma ở đâu ?
Ma có làm hại được ta hay không ? Phải trừ
Ma như thế nào ?... Đó là những câu hỏi có thể nêu lên cho mỗi người trong chúng ta, vì có thể có người chưa hề « gặp
ma » bao giờ, nên tò mò cũng muốn biết xem
Ma ra thế nào, hoặc có người đã từng « thấy
ma » nên vẫn còn bị
Ma ám ảnh và muốn biết xem cái thấy của mình, hay là cái con
Ma họ thấy có thật hay không. Vậy ta hãy xem quan điểm của Phật giáo về
Ma như thế nào.
Tìm hiểu định nghĩa của Ma trong kinh sáchMa là gì ? Chữ
Ma do chữ Phạn
Mâra mà ra. Tiếng Tây tạng là
bDud, người Nhật cũng gọi là
Ma hay
Hajun, tiếng Hán là
Mo hay Mó, nhưng người Trung quốc thường âm từ tiếng Phạn và gọi là
Ma-la, vần r không có trong tiếng Trung hoa nên người Trung hoa thường gọi là
Ma-la thay vì là
Ma-ra. Kể dài dòng ra như thế để thấy rằng không phải chỉ có người Việt Nam ta mới « thấy »
Ma.
Kinh sách định nghĩa chữ
Ma (Mâra) là «
Quỷ sứ cám dỗ », một thứ «
Quỷ tinhranh » tượng trưng cho những xu hướng tâm thần bấn loạn và lầm lẫn, cản trở con đường tu tập của một hành giả.
Phổ diệu Kinh(Latitavistara), là bộ kinh kể lại cuộc đời của Đức Phật, cho biết
Ma đã từng dùng mọi xảo thuật ma quái để quấy nhiễu và cản trở không cho Vị Phật tương lai là Đức Thích-Ca Mâu-Ni đạt được Giác ngộ. Trong đêm trước khi Ngài thành Phật,
Ma dẫn ba con
ma nữ đến quyến rũ Ngài, lại đưa
ma quân đến để ném đá như mưa vào Đức Phật. Tên cầm đầu đòi Đức Phật phải nhường ngai lại cho hắn, vì hắn nhất định bảo rằng không có gì chứng thực Phật đã đạt được Giác ngộ. Phật liền dùng tay phải chạm xuống mặt đất, mặt đất liền bị chấn động và rung chuyển ầm ầm, chứng minh cho sự Giác ngộ đích thực của Ngài. Cả đàn
Ma liền biến mất như bị phù phép vậy.
Như vừa kể trên đây, nếu ta có
ma quân…thì ta cũng phải có tên cầm đầu tức là
Ma vương. Ma vương cũng là cách dịch khác của chữ
Mâra. Ma vương là Vua các loài
Thiên ma, ngụ ở cảnh trời gọi là
Tha-hoá Tự-tại thiên(Paranirmitavasavartin), tức là cảnh trời thứ sáu trong cõi
Dục giới, một cảnh giới thấp nhất trong
Tam giới.
Ma vương có phép thần thông, chuyên dùng
ma thuật để phá rối, ngăn cản sự tu tập của những vị
Bồ-tát.
Ma vương còn có tên là
Ma vương Ba-tuần, tức là tên của
Tha-hoá Tự-tại thiên vương.Vậy theo Kinh sách, có bao nhiêu thứ
Ma tất cả ? Thật ra
Ma nhiều lắm, nhưng tựu trung được phân loại ra làm bốn thứ. Có vài khác biệt trong cách định nghĩa của bốn loại
Ma giữa
Thừa Kinh điển (Sutrayana) và
Kim cương thừa (Vajrayana). Vì thế nếu đem cộng lại sẽ có đến tám thứ
Ma (Bát ma).
Theo
Thừa Kinh điển (Sutrayana) có bốn loại
Ma (Tứ ma) là :
1.
Ma cấu hợp (Skandhamara) : đó là thứ ma quái làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cõi luân hồi. Con ma đó gọi là «
con ma gánh chịu cái chết ». Kinh sách tiếng Hán gọi là
Ấm ma,Uẩn ma, hay
Ngũ chúng ma.
2.
Ma dục vọng (Klesamara) : bao gồm những dục vọng, ham muốn, thèm khát, xui khiến ta phạm vào những hành vi tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, thu ngắn kiếp nhân sinh, đưa ta vào vòng khổ đau của cõi luân hồi. Đó là «
con ma đưa đến cái chết », kinh sách gốc Hán gọi là
Phiền não ma.3.
Ma thần chết (Mrtyumara) : đó là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chất cấu hợp của mọi hiện tượng, tức là quy luật
Vô thường. Con ma này có tên là «
con ma vô thường », kinh sách tiếng Hán gọi là
Tử ma.
4.
Ma con trời (Devaputramara) : bao gồm những thứ ma làm cho ta đãng trí, phân tâm, xúi dục ta bám víu vào ảo giác bên ngoài làm cản trở sự tu học. Đó là «
con ma bấn loạn », kinh sách tiếng Hán gọi là
Tha-hoá Tự-tại Thiên tử ma, gọi tắt là
Thiên ma, tức thần thánh tay sai của
Thiên-hóa Tự tại vương.
Theo Kim cương thừa (Vajrayana) tứ
Ma lại được định nghĩa khác hơn:
1.
Ma xiềng xích (tiếng Tây tạng : thogs-bcas-kyi bdud) : con
Ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền não, binh tật và chướng ngại bên ngoài. Đây là con
Ma của sự
bám víu và
ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Con ma này luôn luôn tìm cách trói buộc ta vào những thứ ấy. Kinh sách tiếng Hán gọi con ma xiềng xích là
Phiền não ma.
2.
Ma thả lỏng (tiếng Tây tạng : thogs-med-kyi bdud) : đó là ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức ta và gây ra khổ đau cho ta. Kinh sách gốc tiếng Hán gọi con ma này là
Tâm ma.
3.
Ma khánh hỷ (tiếng Tây tạng : dga’-brod-kyi bdud) : đó là con ma đội lốt hân hoan, vui thích, thỏa mãn với chính mình, xem ta hơn cả mọi người, xúi dục ta bám víu vào những « kết quả » và « kinh nghiệm » thiền định đã thực hiện được và cho đấy là cao siêu, rồi trở nên hãnh diện, không chịu cố gắng tu tập thêm. Kinh gốc tiếng Hán gọi là
Thiện căn ma.
4.
Ma kiêu căng (tiếng Tây tạng : snyems-byed-kyi bdud) : đó là con ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu, tự đại. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái «
ta », cái «
tôi », cái «
ngã ». Kinh sách gốc tiếng Hán gọi là
Tam muội ma.
Có sách (kinh
Hoa nghiêm sớ sao) còn phân chia
Ma ra làm mười thứ gọi là
Thập ma, trong số mười loại ma này nhiều thứ đã được liệt kê trên đây, tuy nhiên cũng xin kể ra hết theo thứ tự như sau :
1. Uẩn ma2. Phiền não ma3.
Nghiệp ma : tức các nghiệp tiêu cực
ngăn trở việc tu tập.
4. Tâm ma5. Tử ma6. Thiên ma7. Thiện căn ma8. Tam muội ma9.
Thiện trí thức ma : tức là những kẻ thông hiểu được đạo lý, nhưng vì ích kỷ tham tiếc đạo lý ấy mà giữ riêng cho mình, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác. Những kẻ như thế cũng được xem là một loại ma.
10.
Bồ-đề Pháp-trí ma : là những kẻ tuy đã phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn còn chấp trước không quán thấy được chính đạo.
Đã nói đến danh từ và định nghĩa thì cũng mạn phép kể ra thêm :
Ma cảnh : khung cảnh do ma quái tạo ra để phỉnh gạt và ngăn trở người tu hành.
Ma chướng : những chướng ngại, ngăn chận việc tu hành và sự thăng tiến của trí tuệ.
Ma duyên : còn gọi là
ác duyên, tức là những xui khiến đưa đến nghịch cảnh, bất lợi hay độc hại.
Ma đàn : là sự bố thí của ma, không phải là của người. Đó là sự bố thí của những kẻ mang lòng tà, lòng tham, cầu danh, cầu lợi mà bố thí, sợ oai lực của ma quỷ mà bố thí, muốn tránh tại nạn mà bố thí. Loại ma này nhan nhãn chung quanh ta, rất dễ thấy, không cần đến « kính chiếu yêu ». Chữ
Ma đàn nghịch nghĩa với chữ
Phật đàn, tức là bố thí mà không biết là đã bố thí, không biết bố thí cái gì và bố thí cho ai, bố thí chỉ vì lòng từ bi vô biên mà thôi. Bố thí như thế còn gọi là
Bố thí Ba-la-mật.
Ma đạo : đường đi của ma, chốn lui tới của ma, còn gọi là
ma giới, tức cảnh giới của ma.
Ma lực : sức mạnh tiêu cực, kích động những hành vị xấu hay hung ác.
Ma ngoại : là những kẻ phỉ báng, chê bai Đạo pháp.
Ma Phạm : (Mâra hay Brâma) tức là
Ma vương ở cõi
Phạm vương, gọi tắt là
Ma Phạm. Chữ
Ma vương đã được giải thích trên đây, đó là
Thiên-hoá Tự tại vương, còn
Ma Phạm hay
Phạm vương hay
Phạm thiên vương (Mahabrahma) là vị Chúa tể của cõi
Ta-bà, quyền lực của
Ma Phạm hay
Phạm thiên vương vượt lên vị thế cao nhất trong cõi
Dục giới, cai quản và điều hành cả thế giới này. Kinh điển gốc Hán gọi « Ngài » là
Ngọc Hoàng Thượng đế.
Ma thiền : phép thiền định tà mị, sai lầm, liên hệ với ma quỷ, đi ngược với chánh đạo.
Ma thuật : nói chung là những hành vi mê tín, dị đoan, phản khoa học.
Ma sự : ý nghĩa của
ma sự khá rắc rối, đại cương là những
sự việc, những
hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học trên con đường chánh Pháp. Những người thực thi
ma sự có thể xem như những
con ma chạy theo
lục trần : yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và sờ mó những gì ưa thích, ước mong những cảnh huống tiện nghi sang trọng.
Ma sự cũng là những cám dỗ kích động người tu hành phá giới, chạy theo danh lợi, sắc dục.
Ma sự cũng có thể dùng để chỉ người ngồi thiền u mê và ngủ gục, hoặc trụ vào những cảnh hiện ra khi thiền, hoặc cảm thấy bấn loạn trong tâm thức, thấy cảnh dữ mà bỏ thiền...
Ma sự cũng dùng để ám chỉ những người đã xuất gia tu hành nhưng còn ham thích luận bàn thế sự, chiến tranh, tình yêu nam nữ, hoặc xu nịnh bọn cư sĩ và bá tánh lui tới chùa có nhiều của cải, cúng dường nhiều, hoặc vướng vào phép bói toán, đoán số mệnh, ếm ma, trừ quỷ…
Vậy Ma thực sự là gì ?Ma hay
Mâra là một biểu tượng trong Phật giáo và cả Ấn độ giáo, dùng để chỉ một vị trời hay vị thần đứng vào hàng đầu, cao siêu và mạnh hơn hết, giống như định nghĩa của chữ
Ma Phạm vừa nói trên đây. Tên của
Ma có nghĩa là thần chết.
Ma là chúa tể của mọi dục vọng, thèm khát, ham muốn, mọi thứ khoái lạc do thân xác. Đó là Chủ nhân ông của thế giới vật chất và hiện tượng. Trọng trách và bổn phận của người Chủ nhân ông này là phải điều khiển và canh chừng sự vận hành của thế giới đang diễn biến chung quanh ta.
Ma không những tượng trưng cho dục vọng hiển hiện như vừa kể mà còn tượng trương cho những thèm khát tiềm ẩn bên trong ta, không bộc lộ ra ngoài, chúng thuộc về bản năng, có thể phát sinh từ tâm thức mặc dù rất tinh khiết, hoặc từ những nghiệp sâu kín và những cấu hợp của thân xác. Con
Ma này nằm trong da thịt của ta, trong tâm thức ta, trong sự vận hành của cơ thể ta.
Ma còn mang một cái tên nữa mà Kinh sách ít nói đến, đó là con ma
Ái dục (Kâma, xin đừng lầm lộn với karma), đó là sự yêu mến, lòng yêu thương, nói nôm na là tình yêu. Con ma
Ái dục ấy là một thứ bản năng, tinh anh của sự sống, luôn luôn « canh chừng » và « chăm lo » cho ta rất cẩn thận. Con
Ma đó hiển hiện một cách tuyệt vời, thật đẹp, nó làm phát sinh ra mọi hình tướng, màu sắc và âm thanh đủ loại. Con ma đó hiến dâng cho ta những ảo giác biến động như vửa kể do chính nó tạo ra, kèm theo mọi thứ lạc thú và mọi cảnh giới tuyệt đẹp thuộc vào thế giới luân hồi, và tạo ra mọi thứ hạnh phúc của thế tục.
Vấn đề mấu chốt và gay go là
Ma không bao giờ chú ý đến hậu quả của những thứ mà nó đã tạo ra. Nó rất hào phóng, cho không tiếc tay, « tham » bao nhiêu nó cũng cho, « yêu » bao nhiêu nó cũng khuyến khích thêm, « bám víu » bao nhiêu nó cũng sẵn sàng tiếp tay. Nhưng hậu quả của những ảo giác ấy mà
Ma đem tặng cho ta chỉ là khổ đau mà thôi : cướp giật, mưu mô, thất tình, tự tử, lường gạt, đâm chém… Những khổ đau ấy
Ma không cần biết.
Ma cho ta lạc thú, nhưng đồng thời cũng tập cho ta thèm khát lạc thú. Điều này có nghĩa là
Ngũ uẩn quen dần với với những lạc thú, lệ thuộc vào lạc thú và bị kích động bởi lạc thú.
Ma vừa là
Kẻ sáng tạo và đồng thời cũng là
Kẻ phá hoại là như thế đó.
Khi nhìn
Ma dưới khía cạnh này, ta sẽ hiểu ngay là ma ở đâu.
Ma ngự trị chính trong đầu của ta.
Ma nằm sẵn trong tâm thức ta, trong da thịt ta, trong sự vận hành của thân xác và tâm trí ta. Nói cách khác
Ma không nằm bên ngoài ta, không có ta thì cũng không có
Ma.
Ma quân hay những đạo binh ma chính là sự thèm khát nhục dục, thất vọng, buồn bực, đói khát, bám víu, tham lam, chiếm giữ, lười biếng, đờ đẫn, sợ hãi, nghi ngờ, hận thù, tiện nghi, kiêu căng, tự phụ, yêu thương một cách ích kỷ, tự mãn với cái «
tôi » của chính mình v.v. và v.v. Tất cả những thứ này được Kinh sách phân ra làm tám thứ hay mười thứ ma :
Uẩn ma, Phiền não ma, Tử ma, Thiên ma, Tâm ma, Thiện căn ma, Tam muội ma…như đã đề cập trong phầntrên đây. Nhưng nếu suy nghĩ sâu sa thì ta sẽ thấy
Ma nhiều hơn, đông đảo hơn như thế nữa,
Ma hiển hiện cùng khắp trong thế giới luân hồi này.
Trên đây là những gì Kinh sách nói về
Ma, định nghĩa về
Ma. Dựa theo đó ta có thể phân loại và tổng kết thành ba loại như sau :
- ma tượng trưng những cấu hợp do nghiệp của mỗi cá nhân hay những cảnh huống bất lợi xảy ra bên ngoài : chẳng hạn như ma nghiệp, ma duyên, uẫn ma, ấm ma, ngũ chúng ma, ma chướng, ma cảnh, ma đạo, ma duyên…
- ma tượng trưng cho những hành vi sai lầm hay bất chính : ma phiền não, ma khánh hỷ, ma kiêu căng, thiện ma, tâm ma, tam muội ma…
- ma tượng trưng cho những chúng sinh thực thi những hành vi sai lầm, tai hại : chẳng hạn như ma phạm, ma vương, những người thực thi ma sự, ma thuật…
Điều lạ là kinh sách nhiều vô kể nhưng ít thấy nói đến những con ma có thể làm cho ta dựng tóc gáy, hét lên và phóng chạy, hoặc làm cho người ngủ mê kêu ú ớ, tay chân lạnh ngắt và toát mồ hôi đầm đìa. Ta thử tìm hiểu loại ma này xem sao.
Một thí dụ cụ thể về MaĐể tránh cách nói tổng quát, siêu hình như trên đây, ta thử đưa ra một vài thí dụ thực tiễn hơn, đơn giản hơn vể những con ma thường hiện ra dọa nạt những con người bình dị như chúng ta đây, kể cả trẻ con cho đến người lớn. Chẳng hạn khi ta bước vào một căn phòng tối, ta thấy trong một góc phòng có một con
Ma, tóc xõa, mặt xanh mét, đang nhe răng trợn mắt,… và cười với ta một cách thật rùng rợn. Nếu ta bình thản, từ tốn, không khiếp sợ, tiến thẳng đến con
Ma, ta sẽ không thấy
nó khi ta đến gần. Vì đấy chỉ là những ảo giác do ta tạo ra trong đầu hay do bóng tối mờ ảo nuôi thêm trí tưởng tượng của ta. Nếu như ta vẫn « không dám » tiến đến gần, ta cứ bật đèn lên, thì con
Ma cũng biến mất. Nhưng nếu ngược lại, ta hét lên một tiếng, « vắt giò lên cổ » mà chạy, thì nhất định con
Ma sẽ đuổi theo, và nhất định ta sẽ không thể nào chạy nhanh hơn
nó được, vì chính ta cõng
nó mà chạy. Nó ở trong đầu của ta, trong thân xác đang « nổi da gà » của ta.
Tệ hơn nữa, có thể sau đó ta lại đem chuyện « thấy ma » ấy mà vừa thở hổn hển, vừa kể như thật với người khác, tức là ta giới thiệu con
Ma mà ta thấy cho một người thứ hai. Người này có thể vừa thích thú vừa sợ sệt mà đón rước
nó, đem cất giữ
nó vào trong đầu. Người này lại kể cho người thứ ba, người thứ ba lại kể cho người thứ tư. Mỗi lần như vậy thì con
ma mà ta thấy trước đây lại trở nên hung tợn hơn và khiếp đảm hơn một chút, mắt nó trợn to hơn, răng nó dài hơn, và nó cười rùng rợn hơn. Biết đâu sau một vòng, người nghe sau cùng lại vô tình kể lại cho ta nghe về con ma ấy, có thể ta còn sợ nó hơn cả con ma mà chính ta đã từng thấy « thật » trước đây.
Phật có đưa ra một thí dụ dễ hiểu. Khi bước ngang ngưỡng cửa lúc nhá nhem tối, ta thấy một con rắn. Ta hoảng hốt và giật lùi lại. Nhưng nhìn kỹ thì đấy chỉ là một cuộn dây thừng. Con rắn ở trong đầu ta. Con
Ma cũng ở trong đầu ta là như vậy.
Khi ta ngủ mê, ta thường chiêm bao « thấy ma ». Ta hét lên hay la ú ớ…Giật mình thức dậy, ta không thấy con
ma nào cả. Khi ngủ, ta nhắm mắt, nằm trên giường và trong gian phòng tối om, làm gì ta có thế dùng mắt mà thấy được. Cái thấy ấy là do tâm thức của ta thấy, hình ảnh con ma hiện lên từ tiềm thức ta, từ nơi
a-lại-da-thức (âlayavijnâna) của ta, sinh khởi từ những xúc cảm bấn loạn và tiềm ẩn trong ta, từ những nghiệp sâu kín của ta, từ những ám ảnh bịnh hoạn của ta, từ những đam mê, tham dục của ta, từ những bám víu vào ảo giác, sân hận của ta…Những người tu tập cao, nhất là tu tập theo các phép thiền định của Phật giáo Tây tạng, họ ít chiêm bao hay hoàn toàn không còn chiêm bao nữa, hoặc nếu có chiêm bao thì họ chỉ « thấy » những phản ứng và hành vi của họ thấm đượm lòng tư bi, yêu thương, khoan dung và độ lương trước những cảnh đau thương trước mặt họ, nhưng tuyệt đối họ không còn thấy ma nữa.
Tóm lại,
Ma nằm trong tâm trí ta và tâm thức ta. Tại sao ? Vì
Ma chính là Chủ nhân ông của mọi tư duy và hành vi duy ý của ta. Vị Chủ nhân ông ấy tượng trưng cho sự vận hành của nghiệp, cơ sở của sự vận hành ấy là
ngũ uẩn (skanha)
, ngũ uẫn tác động với ngoại cảnh tức là
cơ duyên để giúp cho
nghiệp biến thành
quả. Vậy con
Ma, hay
Vị Chủ nhân ông của ta chính là cái
ta, cái
ngã, cái
tôi đang ẩn nấp trong ta, đang điểu khiển ta. Con
Ma đó chính là
vô minh, tức những bản năng thú tính, dục vọng, thèm khát, bám víu, sân si, ảo giác…, chúng kích động ta, đẩy ta vào những hành vi với mục đích làm thoả mãn những thèm khát và dục vọng trong ta. Hậu quả đưa đến là khổ đau. Trong đầu ta,
Ma luôn luôn nhắc nhở ta phải bảo vệ cái
tôi, cái
ngã của ta, nó rất khôn ngoan và khéo léo, tùy theo từng người, từng hoàn cảnh và trường hợp, nó sẽ dùng cách quát nạt, ra lệnh hay vỗ về bằng những tiếng êm ái, dễ thương, hoặc hét lên the thé…, mục đích để in đậm trong tâm trí ta sự hiện diện của cái
ngã.
Ma là cái
ngã đang thống trị ta, làm cho ta tham lam, ích kỷ, nó xúi dục ta, nịnh hót ta, biến ta thành đốn mạt, nói dối và quỷ quyệt.
Ma không phải chỉ biết doạ nạt suông mà thôi, nhưng chính những hành vi do
Ma xúi dục đã làm phát sinh ra
Thế giới luân hồi.
Thế giới luân hồi nằm trong sự kiềm tỏa của
Ma, đồng thời
Ma lại nằm trong tâm thức ta. Đánh đuổi con Ma ấy ra khỏi tâm thức có nghĩa là xoá bỏ cả thế giới luân hồi này. Vì thế có thể nói
Ma chính là biểu hiện của luân hồi, của sợ hãi, đọa đày và khổ đau.
Ma hay
Vô minh tung hoành trong tâm thức ta, tạo ra u mê, lầm lẫn và đau khổ, kích động ta tạo nghiệp, trói buộc ta vào thế giới luân hồi.
Chu kỳ của sự sống là sự vận hành của bánh xe luân hồi mà động cơ là con
Ma trong đầu ta. «
Tỉnh thức » hay «
Giác ngộ » tức là nhận thức được quá trình đó, sự vận chuyển đó
không thật, chúng chỉ là
ảo giác, chỉ là
Ma. Tóm lại, ta không thể đuổi con
Ma ra khỏi phòng, ta cũng không thể chạy trốn nó được, mà ta phải đuổi con
Ma ra khỏi đầu. Ta không thể dùng bùa chú, phù phép hay nghi lễ để đuổi
Ma. Ta chỉ có thể đuổi
Ma bằng tu tập, bằng cách khắc phục
Vô minh, mang lạicho ta một tâm linh minh mẫn, an bình, trong sáng và rạng rỡ, không còn bóng dáng một con
Ma nào nữa.
Trừ Ma theo Phật giáo Tây tạngTheo sự trình bày trên đây, Ma ẩn nấp trong đầu ta, tu tập tức là tìm cách đánh đuổi con
Ma ra khỏi đầu. Lý thuyết là như thế, nhưng đánh đuổi bằng khí giới gì, bằng cách nào ? Xin trích ra đây câu chuyện
trừ Ma hay
trị Ma của Mật-lặc-Nhật-ba (Milarepa) do Kalou Rinpoché thuật lại trong một quyển sách của ông. Kalou Rinpoché (1904-1989) là một Đại sư Tây tạng rất uy tín đã thuyết giảng trong hai mươi năm liền tại các nước Tây phương trước khi ông qua đời.
Mật-lặc-Nhật-ba (1052-1135) là một thánh nhân Tây tạng, đệ tử của Mã-nhĩ-ba (Marpa). Câu chuyện như sau :
Mật-lặc-Nhật-ba ẩn cư trong một hang động trên Hy-mã Lạp-sơn. Một hôm, khi ông quay vào hang thì bắt gặp một đàn quỷ rất hung tợn đang chờ đợi ông, chúng nhe răng và trợn hai mắt to như hai cái dĩa. Chúng dọa nạt ông, dậm chân làm mặt đất rung chuyển, hò hét thật khiếp đảm. Mật-lặc-Nhật-ba tìm mọi cách để xua đuổi chúng : ông kêu gọi đến sức mạnh của thầy ông là lạt-ma Mã-nhĩ-ba và quán tưởng đến các thần linh phù trợ, nhưng đều không hiệu quả ; ông quay ra hăm dọa lại đàn ma quỷ, tìm mọi cách đánh đuổi chúng. Chẳng những chúng không sợ mà còn chế nhạo ông nữa :
«
Nhìn thấy mi như thế, chúng ta thừa biết mi hoảng sợ lắm rồi. Mi mất hết trầm tĩnh và sự an bình rồi. Ha ! ha ! »
Mật-lặc Nhật-ba liền tự nhủ :
«
Mã-nhĩ-ba thầy ta có dạy rằng những biểu hiện bên ngoài chỉ là những phóng ảnh của tâm thức, bản chất của tâm thức thật ra là trống không và trong sáng. Nếu xem ma quỷ thuộc bên ngoài tâm thức để mà đánh đuổi chúng ra xa thì cũng giống như là những hành động ảo giác mà thôi ».
Mật-lặc-Nhật-ba liền hiểu rằng ông không được phép để cho tâm thức bị ám ảnh bởi những biểu hiện như thế, phải giữ tâm thức vững vàng trước những đàn ma quỷ dù cho chúng hung tợn đến đâu cũng thế. Ông cũng quán nhận được rằng ma quỷ chỉ là những bám víu, và những tư duy nhị nguyên phát sinh từ trong tâm thức. Ông bèn hết sợ, chấp nhận sự đối diện với ma quỷ, đồng thời ông phát lộ lòng Từ bi vô biên đối với chúng.
Ông tự nhủ như sau :
«
Nếu chúng nó muốn ăn thịt ta, ta sẽ hiến dâng thân xác này của ta cho chúng ; sự sống là tạm bợ, đấy chính là một dịp tốt để ta đem thân xác này làm một việc thiện ».
Thật bất ngờ, thái độ Từ bi và sự quán nhận
Tánh không của Mật-lặc-Nhật-ba đã làm nguôi cơn thịnh nộ của đám ma quỷ và tên cầm đầu liền nói với Mật-lặc-Nhật-ba như sau :
«
Chúng ta cứ tưởng là mi khiếp sợ chúng ta ; nào ngờ các ý nghĩ đen tối về ma quỷ không thể nào hiển hiện ra được trong đầu mi, vậy thì mi chẳng có gì để sợ hãi cả ».
Dứt lời, toàn thể đám ma quỷ đều biến mất.
Người ta nghĩ rằng ma chỉ có thể hiện ra trong kẹt cửa hay trong những nơi đầy bóng tối, nhưng thật ra thì chúng đang ẩn nấp trong các ngõ ngách
u tối phía sau tấm màn
vô minh trong tâm thức của mỗi người trong chúng ta. Khi nào chúng ta vun xới tâm thức mình để biến cải nó thành một ngôi vườn đầy hoa thơm và cỏ lạ, tràn đầy lòng Từ bi và rộng lượng, chan hòa ánh hào quang của Phật tính, thì khi ấy trong tâm thức ta tức là ngôi vườn chan hoà ánh sáng đó sẽ không còn có bóng dáng của một con ma nào ẩn nấp.
_ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _
Hồi đó ở Huế ngay khu xóm Chuối, đường Trần Quang Khãi Huế. Tôi hôm đó đang nằm mơ mơ chuẩn bị ngủ thì thấy có một người đàn ông đứng ở dưới chân giường, tôi mới nói trong đầu: Tui là học sinh sinh viên, lấy tiền đâu mà cúng cho ông, biết ông còn vương vấn trần gian thì chưa siêu thoát và không ai cúng cho ... Nếu muốn cúng thì cho tôi trúng số, tôi cúng cho.
Nói xong thì người đàn ông đi về phía góc tường và tôi cũng ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Sáng tỉnh dậy thì thấy cây đàn Guitar nằm ngay vị trí hồi tối người đàn ông đó đứng, mà cây đàn có bao giờ tôi để đó đâu, vậy là tôi nói từ đây tới tối không bao giờ cầm cây đàn.
Tối đó đi chơi về, tự nhiên quên mất cái vụ kia, liền cầm đàn guitar hát chơi. Cái bàn vi tính tôi để ổ cắm điện ngay trên mặt bàn, đang chơi thì cái dây đàn phía đầu cần nó găm vô ổ cắm, tay tôi bị dính chặt vô dây đàn, nguyên cả đường dây điện bị chập và cháy.
KHÔNG BIẾT LÀ DO TRÙNG HỢP HAY SAO ĐÓ? VÀ TỐI HÔM ĐÓ LÀ MƠ HAY THẤY THẬT?