Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012

Đường Tăng & Tây Lương Nữ Vương



Đường Tăng & Tây Lương Nữ Vương: Có một chuyện tình...










Đạo diễn Dương Khiết khi làm phim Tây Du Ký năm 1986, ở tập phim "Tây Lương nữ quốc", đã thêm vào kịch bản một đoạn không có trong nguyên tác của Ngô Thừa Ân. Đấy là đoạn phim Đường Tăng và Tây Lương nữ vương ở tẩm cung



Xem đoạn phim này, khán giả có thể nhận thấy Đường Tăng đã bối rối và thực sự rung động trước vẻ đẹp của nữ vương. Nếu không phải như thế thì vì cớ gì mà Đường Tăng hẹn nữ vương ở kiếp sau? Thậm chí, sau cùng khi cả lý trí lẫn con tim của Đường Tăng đã bị nữ vương đánh gục, ông đang định nhắm mắt trao thân cho nàng thì may sao, bà Dương Khiết đã làm Đường Tăng thoát khỏi (vuột mất) một bàn thua (bàn thắng) trông thấy bằng cách cử một nữ yêu quái đến cướp ông đi.


Trước tiên cần phải nói rằng nếu đối chiếu với Thập Thiện Giới của Phật giáo thì khi Đường Tăng động lòng trước nữ vương, ông đã vi phạm điều "Không tà dâm", cho dù ông mới vi phạm trong ý. Bây giờ xét đến 2 trường hợp. Nếu Đường Tăng trao thân cho nữ vương thì khỏi phải bàn cãi, ông tiếp tục vi phạm điều "Không tà dâm" đối với thân. Nhưng nếu Đường Tăng nhất quyết chối từ thì ông sẽ vi phạm điều "Không ác khẩu", vì lời từ chối của ông sẽ làm nữ vương khổ đau, vậy là ác, thậm chí rất ác đối với quan điểm của một số bạn nữ. Vậy Đường Tăng phải làm gì để vừa tốt đời vừa đẹp đạo?

Trong trường hợp này, để tránh dấn sâu vào tội lỗi, có lẽ tốt nhất là Đường Tăng nên học cách giải quyết của Đức Phật khi nhận được các câu hỏi siêu hình. Tức là, khi nữ vương buông lời ong bướm, Đường Tăng nên im lặng (một cách từ chối trả lời) và dứt khoát rời khỏi tẩm cung. Như vậy ông sẽ tránh được việc vi phạm cả 2 điều "Không tà dâm" với thân và "Không ác khẩu". Hoặc nếu đủ bản lĩnh và trình độ, Đường Tăng nên thực hiện việc giáo hoá nữ vương, thuyết phục nàng xuống tóc quy y và theo ông sang Tây Trúc lấy kinh. Theo tôi, cách sau là trọn vẹn hơn cả cho Đường Tăng, và nếu xét trên quan điểm Phật giáo thì còn tốt cả cho nữ vương nữa.

Đường Tăng (Từ Thiếu Hoa) và Tây Lương nữ vương (Chu Lâm)



Điểm lại một số cảnh nóng trong phim Tây Du Ký qua các phiên bản khác nhau:

Cảnh trong phòng the của nữ vương Tây Lương nữ quốc.
 Không hề có một chút chi tiết "thiếu vải" nào
nhưng cảnh quay bản phim 1986 vẫn khiến bất cứ khán giả nào
 cũng phải rung động trước nhan sắc và tấm tình nữ vương dành cho Đường Tăng.



Đôi mắt tình tứ của Tây Lương Nữ quốc vương
 dành cho Đường Tăng (phiên bản 1986).



Đây là trang phục gợi cảm nhất của Tây Lương nữ vương
 khi bày tỏ tình cảm với Đường Tăng, môt tấm tựa hồ yếm đào hơi trễ
vai và áo choàng mỏng khoác ngoài. Nữ diễn viên đóng Nữ vương - Chu Lâm
 cũng là người đẹp nhất đoàn làm phim 1986.


Trong 25 tập phim của Tây du ký 1982, chắc hẳn khán giả ai cũng nhớ đến tập Tây Lương nữ quốc. Trong phim, Chu Lâm - nữ diễn viên xinh đẹp trong vai nữ vương và Đường Tăng - do nam diễn viên Từ Thiếu Hoa thể hiện đã có một mối duyên tình đầy xúc động. Không chỉ khiến khán giả xao xuyến, hai nam nữ diễn viên chính cũng có một chuyện tình - một chuyện tình chưa thực sự bắt đầu nhưng với Chu Lâm, có lẽ là kéo dài đến suốt đời.
Trong chương trình Nghệ thuật nhân sinh - Tây du ký 20 năm gặp lại, Tây Lương nữ vương - nữ diễn viên Chu Lâm đã không ngần ngại bảy tỏ nỗi lòng mình với Đương Tăng, Từ Thiếu Hoa: "Hôm nay gặp lại đoàn làm phim, ánh mắt tôi chỉ muốn tìm lại một người. Cách biệt 20 năm, không biết Ngự đệ ca ca có khỏe hay không?"

Chu Lâm và Từ Thiếu Hoa nhiều năm sau

Từ một thiếu nữ tuổi 18 đôi mươi khi đến với Tây du ký, đến giờ, Chu Lâm đã hơn bước qua hơn nửa cuộc đờii. Và ai cũng biết, bao nhiêu năm qua, dù có nhiều người đeo đuổi, nhưng Chu Lâm vẫn sống một mình với mối tình chưa kịp bắt đầu mà đã phải kết thúc cùng Từ Thiếu Hoa.
Trong một lần phỏng vấn, Chu Lâm đã kể lại chuyện tình đẹp và buồn của mình. "Năm đó, đến với đoàn làm phim Tây du ký, tôi còn chưa biết ai sẽ đóng vai Đường Tăng. Đọc kịch bản của tập phim, không đánh yêu thì hàng ma, tôi cứ cảm thấy thiêu thiếu một điều gì đó, có lẽ là thiếu một chữ tình. Tôi đến tìm gặp đạo diễn để bày tỏ ý kiến của mình...".
Chính trong lúc đứng chờ đạo diễn Dương Khiết, Chu Lâm đã gặp một chàng thanh niên, mà cô nhớ mãi "khuôn mặt phúc hậu, nồng ấm, ánh mắt thiết tha... mà sau này tôi mới biết, đó là "tình nhân" của tôi trong phim

Chu Lâm là một trong những nữ diễn viên nổi tiếng và đẹp nhất của Trung Quốc trong những năm 80, 90. Có nhiều người đeo đuổi, nhưng cô chọn sống độc thân và giữ những kỷ niệm đẹp về Từ Thiếu Hoa - người bạn diễn chỉ trong 1 tập phim của hơn 20 năm về trước

Chu Lâm hiện nay

Sự gần gũi trong quá trình đóng phim, tìm hiểu kịch bản, sinh hoạt tập thể, cùng những suy nghĩ trẻ trung đã kéo đôi bạn trẻ lại thật gần. Chu Lâm chia sẻ với khán giả những kỷ niệm đẹp mà cô trải qua cùng Từ Thiếu Hoa, cùng viết chữ, ngâm thơ, cùng lên núi ngắm cây ngân hạnh... "Từ Thiếu Hoa là chàng trai nhân hậu, ham học hỏi. Anh ấy từng chia sẻ với tôi, ước muốn lớn nhất của anh ấy là thi đậu đại học".
Chỉ tiếc, người con gái đã động lòng, tình yêu đầu đời đã nảy sinh và chàng trai vẫn dường như giữ ý. Trong đoàn làm phim, không nhiều người biết rằng, 3 ngày trước khi gia nhập đoàn làm phim, Từ Thiếu Hoa đã cưới vợ ở quê nhà.
Với Chu Lâm, đây là một tin "sét đánh ngang tai".2 ngày sau khi biết tin này, Chu Lâm có trong tay kịch bản mới của tập Tây Lương nữ quốc - tập phim mà ở đó, Đường Tăng không chỉ là một vị cao tăng một lòng hướng Phật, và còn là con người có máu thịt, suy tư, tình cảm cùng những bối rối, trăn trở... "Cầm kịch bản, tôi đã trốn trong phòng khóc rất nhiều" - nhiều năm sau, Chu Lâm bồi hồi nhớ lại. Không lâu sau, đạo diễn Dương Khiết cho hay - kịch bản của tập phim tràn đầy xúc cảm mà chúng ta được xem hiện giờ, chính là do Từ Thiếu Hoa viết lại từ kịch bản gốc vốn toàn là những cảnh đánh yêu, hàng ma.

Những hình ảnh cảm động mà mỗi một khán giả yêu thích Tây du ký đều ghi nhớ

Chu Lâm dường như hiểu được tình ý của Từ Thiếu Hoa. "Đường Tăng là người thân mang trọng trách, Tây Lương nữ vương cũng là người viết vì việc lớn. Họ lỗi hẹn với nhau kiếp này, xin đành hẹn đến kiếp sau" - và Từ Thiếu Hoa ngoài đời, cũng là người đàn ông có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Tập phim Tây Lương nữ quốc đã được hoàn thành một cách xuất sắc với những hình ảnh, ảnh mắt dường như là "phim giả tình thật".
Sau khi hoàn thành vai diễn, Chu Lâm đã ngay lập tức rời khỏi đoàn làm phim. Từ Thiếu Hoa lặng lẽ đứng ở sân ga tiễn cô, cả hai lặng im không nói lời nào. 20 năm cách biệt và Chu Lâm mang theo những ký ức về mối tình đầu tiên, cũng là duy nhất trong cuộc đời.
20 năm sau gặp lại, cô chia sẻ: "Tuy trong phim từ đầu tới cuối chỉ là một giai thoại, lại là mối tình không có kết quả nhưng là một kỉ niệm theo tôi trọn đời. Tôi không hối hận vì tôi mãi mãi, hoàn toàn sống trong mối tình của Đường Tăng và Tây Lương nữ vương.
Tình cảm con người đôi khi rất phức tạp, nhân sinh có nhiều cám dỗ. Giống như Tây Lương nữ vương, là người hiểu tình, hiểu lý, biến tình yêu thành một mối duyên cầu, để một lòng khát khao, hướng về cũng là một cảnh giới. Cô ấy làm được, tôi hi vọng mình cũng làm được".
Đoàn làm phim Tây du ký trong chương trình đón năm mới năm 1987

Bao nhiêu năm qua, nữ diễn viên xinh đẹp và nổi tiếng Chu Lâm vẫn sống một mình với mối tình đầu của riêng mình. Trong khi khán giả không ngừng quan tâm đến chuyện tình cảm của cô, thì Chu Lâm chỉ mỉm cười nhẹ nhàng trong đêm chia sẻ Tây du ký - 25 năm gặp lại: "Quan niệm của tôi về sự lựa chọn một nửa của mình có thay đổi gì sau khi tham gia Tây du ký không ư? Rất cảm ơn đạo diễn Dương Khiết đã cho tôi cơ hội được sống cùng với nàng nữ vương xinh đẹp, và tôi có thể nói với bạn rằng, sau Tây du ký, tôi không có cơ hội lựa chọn một nửa của mình, vì sau khi hoàn thành bộ phim, tôi cũng đã hoàn thành chuyện trọng đại trong cuộc đời mình".

Và như thế, vai diễn nàng Tây Lương xinh đẹp đã hoàn toàn thay đổi số phận của Chu Lâm - nữ diễn viên nổi tiếng tại Trung Quốc cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20. Vốn sống lặng lẽ và kín tiếng, từ sau chương trình 25 năm gặp lại, không nhiều người biết cuộc sống của cô ra sao, đã tìm được bến đỗ cho đời mình, hay nguyện biến mối tình Đường Tăng - Tây Lương nữ vương thành một kỷ niệm đẹp và sống trọn với mối tình chưa thực sự có cơ hội bắt đầu này...




Nghe bài hát Tình nhi nữ
( Còn gọi là Giấc mộng nữ vương hay Gặp nhau khó, Biệt ly khó )

Uyên ương cùng lượn, bướm cùng bay Xuân sắc tràn đầy, lòng đắm say. Nữ Vương khe khẽ nhìn tăng hỏi: Đẹp hơn ? Nữ nhi hay là mây ? Vương quyền phú quý chỉ là hư Lại còn giới luật thanh quy ư ? Vứt đi,

bỏ hết, không màng đến. Chỉ cần có chàng, đời đã dư. Mong sau trời đất mãi bền lâu Ta cùng với chàng ở bên nhau. Ta yêu chàng lắm, yêu chàng lắm

Đôi chim cùng đậu, Đôi bướm cùng bay,

Sắc xuân khắp vườn khiến ta say.

Khẽ hỏi Thánh Tăng rằng:

Nữ nhi đẹp hay không? có đẹp không?

Ta đừng nhắc Vương quyền hay phú quý,

Lo gì những giới luật hay điều cấm kỵ

Chỉ nguyện thiện trường đia cửu

Được sống bên người ta yêu

Mãi mãi yêu nhau

Nguyện suốt kiếp không xa rời.













  Nhạc phim Tây Du Kí - Những điều chưa biết




Tây Du Ký 1986, bộ phim quá quen thuộc với tất cả chúng ta, không chỉ thành công nhờ vào bàn tay đạo diễn, tài năng diễn xuất của các diễn viên và nghệ thuật hoá trang.

Sự thành công của bộ phim còn do phim có rất nhiều các ca khúc, bản nhạc tấu hay, đậm bản sắc dân gian Trung Hoa. Nhưng với người Việt Nam, không phải ai cũng biết người sáng tác và thể hiện các ca khúc hay đó. Các nhạc phẩm xướng lên trong phim như Cảm vấn lộ tại hà phương, Tình nhi nữ, Thiếu nữ Thiên Trúc, Ngũ bách niên tang điền thương hải, Hà tất Tây Thiên vạn lý dao, Tình không nguyệt nhi minh,… hầu hết đều do hai nghệ sỹ tài năng của Trung Quốc là Diêm Túc và Hứa Cảnh Thanh sáng tác. Nhà viết kịch Diêm Túc, cũng là nghệ sỹ đa tài, là người chấp bút viết lời cho nhiều ca khúc, trong khi phần nhạc do nhạc sỹ nổi tiếng Hứa Cảnh Thanh phụ trách. Riêng ca khúc Tình nhi nữ bất hủ, đạo diễn Dương Khiết đích thân viết lời.

Bốn thày trò Đường Tăng do các diễn viên Uông Việt, Từ Thiếu Hoa,
 Trì Trọng Thụy, Lục Tiểu Linh Đồng, Mã Đức Hoa, Diêm Hoài Lễ đóng.

Các ca sĩ nổi tiếng của thập niên 1980 Tưởng Đại Vi, Uất Quân Kiếm, Hồ Dần Dần, Ngô Tĩnh,…là những người thể hiện các ca khúc này. Góp mặt thể hiện các bài hát, còn có Lý Linh Ngọc, ca sĩ trẻ đã rất nổi tiếng khi đó, cũng là người được chọn đóng vai Ngọc thố trong phim. Cô thể hiện ca khúc Thiếu nữ Thiên Trúc, và sau này cũng là người hát Tình nhi nữ trong bản phim được sửa lại phần nhạc phim. Đường Tăng Trì Trọng Thụy cũng hát một ca khúc trong phim, nhạc phẩm Tình không nguyệt nhi minh.


Nhạc sỹ Hứa Cảnh Thanh trong buổi gặp mặt 20 năm đoàn phim Tây Du Ký


Các ca sĩ: Tưởng Đại Vi, Hồ Dần Dần, Uất Quân Kiếm,
 Trì Trọng Thụy, Ngô Tĩnh, Lý Linh Ngọc

Diêm Túc (trái), Tưởng Đại Vi và Trì Trọng Thụy cùng người
 dẫn chương trình của CCTV trong một buổi giao lưu khán giả truyền hình

Do phần lớn các ca khúc trong phim đều trở nên quá nổi tiếng, nhiều bản hoà tấu ra đời. Cũng nhiều ca sĩ trẻ thể hiện lại các ca khúc gắn bó với tên tuổi các bậc đàn anh đàn chị trước đây, tôn vinh thêm tác phẩm truyền hình bất hủ Tây Du Ký.

Cảm vấn lộ tại hà phương - ca khúc chủ đề của bộ phim gắn với tên tuổi Tưởng Đại Vi  và được ông trình bày rất nhiều lần thành công. “Hỏi đường tại nơi nào? Đường dưới chân ta! Hỏi đường tại nơi nào?Đường dưới chân ta!”, lời ca khúc sâu sắc, nhạc hùng tráng, được rất nhiều nghệ sỹ hát lại, trong đó có Cung Nguyệt. Thật thú vị khi được nghe giọng ca nữ trẻ  thể hiện ca khúc rất quen thuộc này, tình cảm và sâu lắng.

Cung Nguyệt – Cảm vấn lộ tại hà phương

Cung Nguyệt cũng thể hiện rất nhiều ca khúc nổi tiếng khác trong phim, trong đó có Hà tất Tây Thiên vạn lý dao, ca khúc liêu trai, trong phim được xướng bởi Ngô Tĩnh, trong hoạt cảnh Hạnh Tiên quyến rũ Đường Tăng: “Đào mận ngát hương, hoa lê hé nở/ Sao bằng được em: trên cành ý xuân xốn xang rạo rực”.


Cung Nguyệt – Hà tất Tây Thiên vạn lý dao


Ca sĩ trẻ Cung Nguyệt

Một ca khúc khác, Ngũ bách niên tang điền thương hải, trong phim do Uất Quân Kiếm hát, nhẹ nhàng tình cảm, thì đến Cung Nguyệt, lại là buồn da diết. “Năm trăm năm bãi bể biến nương dâu, tảng đá cứng cỏi cũng phủ xanh rêu, phủ xanh rêu. Chỉ còn một trái tim là chưa chết, nhìn lại quá khứ tiêu dao tự tại, tiêu dao tự tại.”  Lời ca khúc cũng là nỗi lòng của Tôn Ngộ Không khi bị Phật tổ đày dưới Ngũ Hành Sơn 500 năm.


Cung Nguyệt – Ngũ bách niên tang điền thương hải

Tình nhi nữ, ca khúc trữ tình hay bậc nhất Trung Quốc, trước đây đã được Ngô Tĩnh và Lý Linh Ngọc thể hiện rất thành công, cũng được ca sĩ trẻ nổi tiếng Tô Vân thể hiện. “Uyên ương hồ điệp dập dìu một vườn xuân sắc đắm say lòng người khẽ khàng hỏi vị thánh tăng ngài rằng nhi nữ có đẹp chăng?”. Lời ca khúc nói lên nỗi lòng của Nữ vương Tây Lương nữ quốc trước Đường Tăng, đầy xúc cảm và tình tứ. Mặc dù nhiều người thích nghe Lý Linh Ngọc và Ngô Tĩnh hát, nhưng Tô Vân hát ca khúc này cũng rất thành công và được nhiều bạn trẻ ưa thích.


Tô Vân – Tình nhi nữ
Trái với phần lớn ca khúc trong Tây Du Ký, bài Thiếu nữ Thiên Trúc lại mang âm điệu rộn ràng, đậm chất trữ tình dân ca Ấn Độ. Đạo diễn khéo chọn ca sĩ Lý Linh Ngọc đóng vai Ngọc thố để hát ca khúc này. Khác với Lý Linh Ngọc, thể hiện ca khúc vui tươi , hồn nhiên và trong sáng “Là ai đã đưa anh tới bên em, là mặt trăng tròn, ánh trăng sáng tỏ, là dòng suối róc rách chảy từ đỉnh núi mùa xuân”, thì  với giọng hát Đổng Lệ,  người nghe lại thấy nhẹ nhàng hơn, như là chia sẻ nỗi lòng với thiếu nữ Thiên Trúc khi không đạt được ước nguyện của mình.


Đổng Lệ - Thiếu nữ Thiên Trúc

Đến nay bộ phim đã có sức sống trong lòng công chúng hơn 20 năm. Lục Tiểu Linh Đồng và các bạn diễn của ông, cũng như êkíp làm phim, người còn người mất, nhưng những ai nghe lại các ca khúc này không khỏi bồi hồi nhớ lại tuổi trẻ của mình, và những kỷ niệm với bộ phim Tây Du Ký kinh điển.   


Chu Tử Nguyệt
(Tổng hợp)


 PHỤ LỤC:

Tây du ký (phim truyền hình 1986)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


西遊記
(Tây du ký)


Thể loại
Phim thần thoại
Sáng lập
Dựa theo tiểu thuyết Tây du ký của Ngô Thừa Ân
Đạo diễn
Diễn viên
Phụ hòa âm
Quốc gia
Ngôn ngữ
Số tập
25 (phần 1)
16 (phần 2) (Danh sách chi tiết)
Sản xuất
Nhà sản xuất
Địa điểm
Trình chiếu
Kênh trình chiếu
Phát sóng
Tây Du Ký (Tiếng Hoa:西遊記) - (bính âm: Xi you ji) - (tiếng Anh: Xi You Ji Journey to the West) là một bộ phim truyền hình được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Trung Quốc Ngô Thừa Ân, do Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) sản xuất, phim khởi quay từ năm 1982 và đến năm 1988 thì hoàn thành. Năm 1986 CCTV chính thức công chiếu 11 tập đã quay và lấy năm này là năm sản xuất vì thế phiên bản này thường lấy tên là Tây Du Ký 1986.

Mục lục

Nội dung

Lưu ý: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.
"Tây Du Kí" bắt nguồn từ một câu chuyện có thật: Nhà sư trẻ đời Đường Thái Tông tên là Trần Huyền Trang, năm 21 tuổi đã một mình sang Ấn Độ tìm thầy học đạo. Ông ra đi từ năm 629 đến năm 645 mới về Trung Quốc, tổng cộng là 17 năm; trong đó, có 6 năm tu học ở chùa Na Lan Đà - một trung tâm Phật giáo hồi bấy giờ. Khi về nước, ông phải dùng tới 24 ngựa tải 657 bộ kinh Phật.
Câu chuyện có thật đó vốn đã mang màu sắc huyền thoại, được truyền tụng rộng rãi trong dân gian và thần thoại hóa.
Ngô Thừa Ân tuy là người tập hợp và gia công cuối cùng, nhưng ông vẫn xứng đáng là tác giả vĩ đại nhất của bộ "Tây Du Kí". Với ngòi bút sáng tạo của ông, tác phẩm không những có dung lượng đồ sộ, mà tính tư tưởng cũng được nâng cao, hình tượng nhân vật trở nên sống động, có tính cách rõ nét, văn phong uyển chuyển, nhất quán.
"Tây Du Kí" kể về chuyện Tôn Ngộ Không, Trư Bát GiớiSa Ngộ Tịnh phò Đường Tăng sang phương Tây (Ấn Độ ở về phía Trung Quốc). Đường đi gặp bao trắc trở, gian nan trắc trở, tổng cộng gặp đến 81 nạn, cuối cùng cũng đều vượt qua đến được xứ sở Phật tổ, mang kinh Phật về truyền bá ở phương Đông.
Hết phần cho biết trước nội dung.

Sản xuất

Bộ phim ra đời trong hoàn cảnh khó khăn do được sản xuất vào thập kỉ 1980 thời mà kĩ xảo điện ảnh còn thô sơ lạc hậu. Vốn đầu tư 6 triệu nhân dân tệ tuy là một khoản tiền rất lớn nhưng cũng không đủ trang trải cho toàn bộ phim, các diễn viên cũng chỉ nhận được thù lao tượng trưng, ít ỏi. Phim được làm trong 6 năm trời ròng rã từ năm 1982 đến năm 1988 hoàn thành. nhiều thông tin cung cấp năm 1986 bộ phim chính thức trình chiếu cho khan thính giả và nhận thấy có nhiều phần thiếu sót nên tiếp tục đầu tư xây dựng và mãi đến năm 1988 thì chính thức hoàn thiện. Tây Du Kí vừa quay vừa phát sóng theo kiểu cuốn chiếu, tập phim đầu tiên “Trừ yêu Ô Kê quốc” ra mắt khán giả vào dịp lễ Quốc khánh Trung Quốc vào năm 1982, đến ngày 1/2/1988, CCTV mới phát sóng trọn bộ phim Tây Du Kí 25 tập. Đặc biệt, trong 20 năm qua, phim đã nhiều lần phát sóng lại, mỗi lần cả người lớn và trẻ em đều háo hức đón xem. Có thể nói, bản phim Tây Du Kí 1986 đã sống mãi với thời gian và ăn sâu trong kí ức của nhiều thế hệ khán giả. Hầu hết các đài truyền hình của Việt Nam đều ít nhất trình chiếu một lần. Có đài phát sóng đến gần 10 lần và trình chiếu đi và chiếu lại suốt nhiều năm liền.[1]

Tạo hình và kĩ xảo



Phần lớn do kĩ xảo hạn chế, phần cảnh trên thiên đình hầu hết được quay tại phim trường
Có thể nói, phục trang, hóa trang, tạo hình của bộ phim hết sức thành công và khó có phiên bản nào qua được. Chính những chi tiết sắc sảo của từng vai diễn. Với mỗi tập là những con yêu quái hoàn toàn khác nhau và không yêu quái nào sử dụng lại. Chính nhờ những phần hóa trang yêu quái như thế nên phần nào giúp bộ phim xóa đi khuyết điểm thiếu diễn viên. Có khi một diễn viên đóng đến 4, 5 vai, và đặc biệt hơn, có tập phim đến phó đạo diễn, thư kí trường quay đều thủ vai yêu tinh nốt. Cá biệt, nhờ vào đeo mặt nạ hóa trang, nên có diễn viên 25 tập đóng đến 10 vai khác nhau[2]
Phục trang, tạo hình cũng góp phần tạo nên sự thành công của bộ phim, nhất là trong các phân đoạn, cảnh quay đông đúc: bầy khỉ ở Hoa Quả Sơn, cảnh chư vị thần tiên tụ hội trên thiên đình và vũ điệu của Hằng Nga, đoạn nhà sư Trần Huyền Trang lần đầu diện kiến vua Đường,.v..v... Dù rằng quay trong phim trường sử dụng phông màn xanh cùng với kĩ xảo bị hạn chế, thế nhưng cảnh vật với hoa sen thật khiến cho cảnh thiên đình trong Tây Du Kí 1986 luôn là cảnh mẫu cho các bộ phim về sau.
Đặc biệt cách dựng cảnh Bồ Tát và các vị La Hán ở Thiên Trúc khi Đường Tăng đến bái kiến Như Lai Phật Tổ hết sức tuyệt vời. Tất cả như một bức tranh nổi, đẹp và rất sống động. Mười tám vị La Hán là 18 khuôn mặt và tư thế khác nhau oai nghiêm và sống động khiến cho từng cảnh quay ở các phân đoạn này luôn như thật.
Lưu Lễ – người phụ trách dàn dựng kĩ xảo phim Tây Du Kí cho biết, trong phim đã sử dụng hơn 1.000 cảnh quay kĩ xảo, nhưng anh nói, với kĩ thuật làm phim lúc bấy giờ thì chưa thể gọi đó là kĩ xảo, bởi nó đều được làm bằng sức người, phương pháp thủ công, dựng phim ghép hình... Như để có được những hình ảnh bồng lai thiên cảnh trên thiên đình, đoàn làm phim phải sử dụng hiệu ứng sân khấu, cảnh Tôn Ngộ Không dùng phép Cân đẩu vân đi mây về gió được dựng với thủ pháp ghép hình, trường đoạn Tôn Ngộ Không bị đốt trong lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân, đoàn làm phim phải dựng những cảnh cháy thật, khiến Lục Tiểu Linh Đồng bị lửa làm cháy bỏng... Chưa kể, những con vật, linh thú hay yêu quái hiện nguyên hình, đoàn làm phim phải sử dụng những con thú nhồi bông hay làm thật con thú đó. Tập 17 trường đoạn con linh vật của Ngưu Ma Vương đoàn làm phim sử dụng kì lân của đội lân hay con trâu Ngưu Ma Vương biến hình được làm thật và chỉ quay đúng một tập phim. Ngoài ra còn rất nhiều con vật khác, lúc bấy giờ kĩ xảo khó khăn, đoàn làm phim bắt buộc phải làm thật.
Mặc dù bị hạn chế phần kỹ xảo, nhưng cách tạo hình nhân vật trong Tây Du Kí rất bắt mắt, vai Tôn Ngộ Không ở mỗi giai đoạn trưởng thành đều có tạo hình khác nhau, đặc biệt những nhân vật yêu tinh đều thể hiện được hình thù đặc trưng, giúp khán giả dễ dàng phân biệt. Bằng phương pháp thủ công mà năm xưa các nhà làm phim đã hoàn thành bộ phim kinh điển Tây Du Kí, điều đó đã được giới làm phim Trung Quốc xem là niềm tự hào, và còn là bệ phóng đánh dấu một bước tiến mới trong quá trình phát triển của truyền hình Trung Quốc.

Ngoại cảnh



Cửu Trại Câu - ngoại cảnh được quay trong tập 21 Tây Du Kí: Lọt vào Động Bàn Ti và ngoại cảnh của Hoa Quả Sơn
Phim Tây Du Kí quay ngoại cảnh xuyên suốt Trung Hoa từ Bắc chí Nam: Bắc Kinh, Hồ Nam, Sơn Đông, Tam Hiệp, Tứ Xuyên, Dương Châu, Thổ Lỗ Phồn - Hỏa Diệm Sơn- Tân Cương, Nội Mông, Quảng Châu, Hàng Châu, Giang Tô, Phúc Kiến, Hà Bắc, Vân Nam... và còn sang tận Thái Lan ghi hình[3]. Lúc bấy giờ, một bộ phim ra nước ngoài quay ngoại cảnh được xem là sự kiện đình đám trong giới làm phim.
Theo nhận xét của giới báo chí, phần ngoại cảnh tuyệt đẹp trong phim Tây Du Kí đã góp phần không nhỏ làm nên thành công cho bộ phim. Có thể nói, những chốn bồng lai tiên cảnh, non nước hữu tình đã che lấp đi phần kĩ xảo lạc hậu. Ngoại cảnh trong phim đã được quay tại:
Tập 1 – Bắc Đới Hà; tập 2 – Giới Đài tựBắc Kinh; tập 4, 11 và 12 – Hồ Nam; tập 7 – Sơn Đông; tập 8 – Tam Hiệp; tập 9 – Tứ Xuyên; tập 10 – Trương Gia giới; tập 13 – Dương Châu; tập 17 – Thổ Lỗ Phồn Hỏa Diệm Sơn; tập 21 – Cửu Trại Câu; tập 23 – Quảng Châu; tập 24 – Thái Lan; tập 25 – Thái LanHồ Nam.

Khó khăn

Vào thời điểm đầu thập niên 80, phim truyền hình Trung Quốc chưa phát triển mạnh, vốn làm bộ phim 6 triệu Nhân dân tệ đã được xem là số tiền kếch xù, nhưng vẫn không đủ trang trải, nhất là việc phải di chuyển đến nhiều nơi rất tốn kém. Tuy nhiên, những khó khăn về tài chính, nhân lực, phương tiện kĩ thuật... vẫn không hề ảnh hưởng đến quyết tâm làm phim Tây Du Kí của nữ đạo diễn Dương Khiết và êkíp làm phim. Đó cũng là lý do tại sao mỗi khi các tờ báo viết về phim Tây Du Kí đều không quên nhắc đến quá trình làm phim gian nan, và còn xem đây là bộ phim thể hiện quyết tâm, ý chí và tinh thần đoàn kết của người Trung Quốc.
Do nguồn kinh phí eo hẹp, diễn viên chỉ được trả thù lao tượng trưng, hơn nữa, diễn viên và nhân viên hậu trường không có sự phân biệt, lúc đoàn di chuyển ngoại cảnh, diễn viên cũng phải phụ khuân vác, còn lúc thiếu diễn viên, nhân viên hậu trường cũng phải “thò mặt” ra trước ống kính, như: thư kí trường quay Vu Hồng (hiện là vợ của Lục Tiểu Linh Đồng) đã đóng vai Hoàng hậu nước Thiên Trúc; huấn luyện viên võ thuật Lâm Chí Khiêm vừa đảm nhận vai trò chỉ đạo nghệ thuật vừa đóng vai Nhị Lang Thần, Hạ Bá Hoa (夏伯华) vừa đảm nhận chỉ đạo võ thuật vừa đóng vai Yêu đạo – câu chuyện “Trừ yêu Ô Kê quốc” (phiên bản 1982).
Vì đa phần các cảnh quay đều thực hiện thô sơ nên các cảnh quay bay lượn, đoàn thực hiện các cảnh quay cáp. Do không có diễn viên đóng thế, vì các cử chỉ và điệu bộ của Tôn Ngộ Không rất khó bắt chước nên đa phần các cảnh quay bay lượn trên không bằng cáp, Lục Tiểu Linh Đồng đều tự mình thực hiện các cảnh quay nên anh là người bị tai nạn nhiều nhất. Trường đoạn Hồng Hài Nhi dùng Tam Muội Chân Hỏa để đốt, do lửa cháy yếu, đạo diễn đã cho lửa cháy lớn khiến Tôn Ngộ Không bị bỏng rất nặng phải nằm 3 tháng theo yêu cầu bác sĩ. Trường đoạn tập 17, 18, quay các ngoại cảnh tại Thổ Lổ Phồn, Lục Tiểu Linh Đồng nhiều lần bị đứt dây cáp.[4]
Vào thời điểm bấy giờ, mức kinh phí 6 triệu là khoản đầu tư rất lớn, nhưng vẫn không đủ trang trải cho 25 tập phim. Vì thế, thù lao trả cho các diễn viên rất thấp, trong đó, Lục Tiểu Linh Đồng là người được trả thù lao cao nhất cũng chỉ 70 nhân dân tệ/tập phim, con số này kém xa so với cát-sê của các diễn viên trẻ ăn khách thời nay.

Võ thuật

Phim Tây Du Kí có đến 3 nhà chỉ đạo võ thuật: Lâm Chí Khiêm (người đóng vai Nhị Lang Thần) – từng là huấn luyện viên võ thuật; Hạng Hán – huấn luyện viên võ thuật và Hạ Bá Hoa (người đóng vai Yêu đạo – câu chuyện “Trừ yêu Ô Kê quốc” phiên bản 1982). Trong phim có hai nữ diễn viên không có chỉ đạo võ thuật và là tự diễn xuất: Vương Phượng Hà vai Thiết Phiến công chúa trong màn múa kiếm (tập 17) do chính chị thể hiện. Nữ diễn viên thứ hai là Nhậm Văn Kiên vai nữ múa kiếm do Bạch Long Mã biến thành (tập 11) do chính chị thể hiện.

Âm nhạc

Có thể nói, bộ phim Tây Du Kí phiên bản 1986 là tập hợp các ca khúc và thành công của phim một phần chính nhờ các ca khúc này.
Với 25 tập phim, bộ phim có đến 20 ca khúc sử dụng trong phim và có 30 khúc hòa tấu.
Ngoài một ca khúc chủ đề cuối phim "Đường chúng ta đi"- Cảm vấn lộ tại hà phương (
敢问路在何方 (片尾曲)) do Tưởng Đại Vi (蒋大为) hát, còn có các ca khúc nằm rải rác ở các tập phim.

Phát sóng

Thời điểm phát sóng: Do thời gian làm phim kéo dài, nên Tây Du Kí đã được quay và phát sóng theo kiểu cuốn chiếu. Tháng 8/1982, bấm máy câu chuyện “Trừ yêu Ô Kê quốc”, lễ Quốc Khánh cùng năm CCTV phát sóng câu chuyện đó. Năm 1983, quay các tập “Họa từ Quan Âm viện”, “Thâu ngật nhân sâm quả”, “Tam đả Bạch Cốt tinh”. Ngày 3/2/1984, CCTV phát sóng 2 tập phim: “Kế thu Trư Bát Giới” và “Tam đả Bạch cốt tinh”. Tết Nguyên Đán năm 1986, CCTV chiếu 11 tập của bộ phim. Trong năm 1986, quay tiếp các tập: “Đoạt Bảo Liên Hoa động”, “Đại chiến Hồng Hài Nhi”, “Đấu phép hạ tam quái”, “Thỉnh kinh Nữ Nhi quốc”, “Tam điều Tì Bà phiến”, “Tảo tháp biện kỳ oan”, “Đánh nhầm Tiểu Lôi Âm”, “Tôn hầu xảo hành y”. Năm 1987: quay tiếp “Rơi nhầm Bàn Tơ động”, “Tứ thám Vô đáy động”,“Truyền nghệ Ngọc Hoa Châu”, “Thiên Trúc thâu Ngọc Thố”, “Ba thăng cực lạc thiên”. Ngày 1/2/1988, CCTV phát sóng trọn bộ phim Tây Du Ký gồm 25 tập.
Ban đầu, đoàn làm phim dự định làm 30 tập nhưng do kinh phí chỉ đủ cho 25 tập phim, nên đoàn làm phim đành bỏ dở năm tập phim còn lại. Sau này đến năm 2000 đoàn làm phim quyết định dựng lại năm tập phim còn thiếu, nhưng do năm tập ngắn quá mà những tập hay đều làm hết ở phần một nên ban biên tập đã cải biên năm tập phim đó thành 16 tập với lối dẫn chuyện ban đầu khác. Ở phần hai, nhiều diễn viên đóng phim ở phần một vẫn đóng tiếp tuy tuổi tác có phần già đi nhiều.

Giai đoạn sản xuất

Phần một

Với 25 tập phim của phần một - dường như nó quá ngắn để diễn tả hết nội dung của Tây du ký của Ngô Thừa Ân, thế nhưng chính nội dung phim không quá rườm rà, cô đọng khiến phim luôn diễn tiến liên tục, hấp dẫn. Ngoài 25 tập phim được chiếu như hiện giờ, trong thời gian 1982 - 1988 còn một phiên bản "Trừ yêu Ô Kê quốc" quay năm 1982 (sau được quay lại năm 1986) và một phiên bản "Thâu ngật nhân sâm quả" (khởi quay lại năm 1984) nhưng sau không sử dụng.
  • Biên kịch: Đới Anh Lộc (戴英禄), Trâu Ức Thanh (邹忆青), Dương Khiết (杨洁);
  • Đạo diễn: Dương Khiết (杨洁);
  • Quay phim: Dương Sùng Thu (扬崇收);
  • Phó đạo diễn: Nhậm Phượng Pha, Tuân Hạo;
  • Thiết kế mĩ thuật: Mã Vận Hồng;
  • Mĩ thuật: Vương Bách Bình, Viên Trù, Lý Huệ Mẫn, Lưu Quan Nhạn;
  • Ghi âm: Phùng Cảnh Sơn;
  • Phỏng âm: Vương Văn Hoa;
  • Ánh sáng: Chu Hi Đức, Lưu Kiên, Trương Quân Dân, Vương Bình, Trương Văn Học;
  • Tạo hình nhân vật: Vương Hi Chung;
  • Phục trang: Vương Uẩn Kì;
  • Chỉ đạo võ thuật: Lâm Chí Khiêm, Hạng Hán;
  • Thư kí trường quay: Mã Lệ Châu, Vu Hồng, Lý Thành Nho;
  • Sương khói: Lưu Lễ, Đổng Chấn Huệ;
  • Trợ lí đạo diễn: Cận Căn Tuất;
  • Phó quay phim: Đường Kế Toàn;
  • Trợ lí quay phim: Lưu Đại Kiện, Diêm Túc, Diệp Mao;
  • Quản lí trường quay: Lý Kiến Thành;
  • Hóa trang: Thôi Khiết, Trương Hưng Hoa, Dương Tuyết, Đặng Kinh Bình, Dương Vân Phỉ;
  • Phục trang: Lý Bảo Tường, Hàn Canh Trạch, Trần Thiết San;
  • Đạo cụ: Trần Thiết San, Chân Chí Tài, Tôn Bộ Vân;
  • Chế cảnh: Từ Tiểu Quang, Cát Hữu, Từ Vĩnh Tân, Hứa Tín Lương;
  • Trang trí: Trương Thụy Lai;
  • Chuyên viên trường quay: Đặng Thiểu Sanh, Liên Trì Thủy;
  • Biên đạo múa: Cổ Hải Hoàn, Lý Chí Vĩ;
  • Chuyên viên chế tác: Vương Xảo Hồng, Hàn Lập Mai;
  • Biên tập âm nhạc: Vương Văn Hoa;
  • Thu âm: Hồ Tiểu Vĩ, Lương Bách Cường;
  • Soạn lời: Diêm Túc;
  • Soạn nhạc: Hứa Kính Thanh;
  • Ca sĩ: Tương Đại Vi, Lý Tĩnh Nhàn, Diệp Mao, Lý Linh Ngọc, Ngô Tịnh, Trì Trọng Thụy, Hồ Dần Dần, Úc Quân Kiếm, Chu Lập Phu;
  • Diễn tấu: Đội nhạc đàn sáo múa tinh hoa trung ương;
  • Chỉ huy: Hồ Bỉnh Húc;
  • Kịch vụ: Sa Kiệt, Từ Lôi Đình, Dương Bân, Tào Kiến Quân;
  • Phó chủ nhiệm kịch vụ: Lý Hồng Dương;
  • Phối âm: Lý Dương, Lý Thế Hoành, Trương Vân Minh, Lý Ba, Vương Ngọc Lập, Trương Triều, Trần A Hỉ, Vương Tuyết Thuần, Ngô Quế Linh, Trì Trọng Thoại (khách mời), Mã Đức Hoa (khách mời);
  • Nhà sản xuất: Dương Khiết;
  • Tổng giám chế: Vương Phong, Nguyễn Nhược Lâm.

Dưới đây là danh sách 25 tập phim Tây du ký:
  1. 猴王初问世 – Hầu vương sơ vấn thế: Tôn Ngộ Không theo học phép Bồ Đề sư tổ, tương ứng nguyên tác hồi 1-2;
  2. 官封弼马温 – Quan phong Bật Mã Ôn: Tôn Ngộ Không náo loạn Long cung..., được phong Bật Mã Ôn, tương ứng nguyên tác hồi 2-4;
  3. 大圣闹天宫 – Đại Thánh náo thiên cung: Tôn Ngộ Không - Tề Thiên Đại Thánh náo Thiên cung, tương ứng nguyên tác hồi 4-7;
  4. 困囚五行山 – Giam cầm Ngũ Hành Sơn: Tôn Ngộ Không bị Phật Tổ giam cầm dưới núi Ngũ Hành, Đường Tăng thỉnh kinh, tương ứng nguyên tác hồi 7-9 và 12-13;
  5. 猴王保唐僧 – Hầu vương hộ Đường Tăng: Ngộ Không, Bạch Mã hộ giá Đường Tăng, tương ứng nguyên tác hồi 13-15;
  6. 祸起观音院 – Họa khởi Quan Âm viện: Tôn Ngộ Không và Quan Âm thu phục Hắc Hùng Tinh trộm cà sa, tương ứng nguyên tác hồi 16-17;
  7. 计收猪八戒 – Kế thu Trư Bát Giới: Thu phục Trư Bát Giới tại Cao Lão trang, tương ứng nguyên tác hồi 18-19;
  8. 坎途逢三难 – Khảm đường gặp tam tai: gặp nạn Hoàng Phong động, thu phục Sa Tăng, các Bồ Tát thử lòng Trư Bát Giới, tương ứng nguyên tác hồi 20-24;
  9. 偷吃人参果 – Thâu ngật nhân sâm quả: Tôn Ngộ Không trộm nhân sâm tại quán Trấn Nguyên đại tiên, tương ứng nguyên tác hồi 24-26;
  10. 三打白骨精 – Tam đả Bạch Cốt tinh: Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh và bị đuổi về núi Hoa Quả, tương ứng nguyên tác hồi 27;
  11. 智激美猴王 – Trí kích Mĩ Hầu vương: Ngộ Không trở lại thu phục Hoàng Bào quái tại Bảo Tượng quốc, tương ứng nguyên tác hồi 28-31;
  12. 夺宝莲花洞 – Đoạt bảo Liên Hoa động: trừ yêu quái Kim Giác và Ngân Giác, tương ứng nguyên tác hồi 32-35;
  13. 除妖乌鸡国 – Trừ yêu Ô Kê quốc: trừ yêu đạo tại Ô Kê quốc, cứu sống quốc vương Ô Kê, tương ứng nguyên tác hồi 36-39;
  14. 大战红孩儿 – Đại chiến Hồng Hài Nhi: Quan Âm hỗ trợ thầy trò Đường Tăng thu phục Hồng Hài Nhi, tương ứng nguyên tác hồi 40-42;
  15. 斗法降三怪 – Đấu phép hạ tam quái: tại Xa Trì quốc, Ngộ Không đấu phép ba yêu quái lốt đạo sĩ, tương ứng nguyên tác hồi 44-46;
  16. 趣经女儿国 – Thỉnh kinh Nữ Nhi quốc: Đường Tăng qua Tây Lương nữ quốc, trừ bọ cạp tinh, tương ứng nguyên tác hồi 53-55;
  17. 三调芭蕉扇 – Tam điệu Tì Bà phiến: thầy trò qua Hỏa Diệm Sơn, thu phục Ngưu Ma Vương, tương ứng nguyên tác hồi 59-61;
  18. 扫塔辨奇冤 – Tảo tháp biện kì oan: qua Sái Trại quốc, Bạch Mã giúp thu phục Cửu Đầu Trùng, tương ứng nguyên tác hồi 62-63;
  19. 误入小雷音 – Ngộ nhập Tiểu Lôi Âm: thày trò gặp Hạnh Tiên, gặp yêu quái Hoàng Mi, tương ứng nguyên tác hồi 64-66;
  20. 孙猴巧行医 – Tôn hầu xảo hành y: Tôn Ngộ Không thu phục quái Trại Thái Tuế tại Châu Tử quốc, tương ứng nguyên tác hồi 68-71;
  21. 错坠盘丝洞 – Rơi nhầm Bàn Tơ động: thày trò gặp bảy nhện tinh và Đa Mục quái, tương ứng nguyên tác hồi 72-73;
  22. 四探无底洞 – Tứ thám vô đáy động: thầy trò gặp nạn tại động không đáy, thu phục Bạch Thử tinh, tương ứng nguyên tác hồi 80-83;
  23. 传艺玉华州 – Truyền nghệ Ngọc Hoa Châu: đến Ngọc Hoa châu, và thu phục Cửu Linh nguyên thánh, tương ứng nguyên tác hồi 84-85 và 88-90;
  24. 天竺收玉兔 – Thiên Trúc thâu Ngọc Thố: đến Thiên Trúc quốc, thu phục Ngọc thố tinh, tương ứng nguyên tác hồi 93-95;
  25. 波生极乐天 – Ba thăng Cực lạc thiên: thầy trò bái yết Phật Tổ và về đất Đường, tương ứng nguyên tác hồi 98-100.

Phần hai

Phần hai phim Tây Du Kí được sản xuất năm 1998 - 1999, phát sóng năm 2000, gồm 16 tập, bổ sung cho những chuyện trên đường Tây du mà phần một chưa kể hết. Phim vẫn do Dương Khiết đạo diễn, khâu võ thuật được giao cho nhà chỉ đạo võ thuật Tào Vinh phụ trách. Các nhà làm phim lấy bối cảnh thầy trò Đường Tăng trở về Trường An và lần lượt kể lại những trắc trở trên đường đi cho vua Đường Thái Tông nghe. Hình ảnh minh họa cho lời kể chính là những tập phim "bổ khuyết" cho phần 1. Đạo diễn Dương Khiết đã đặt tên cho trọn bộ 16 tập phim sau là: Tây Du Kí tục biên. Theo giới chuyên môn nhận xét, phần hai Tây Du Kí không hấp dẫn bằng phần một, không phải các tai nạn phần 2 không hay bằng phần 1 mà chính là phần hai kéo dài. Khán giả cho rằng nó không cô động, lạm dụng kĩ xảo và nhạc phim lẫn tạo hình nhân vật, diễn viên già đi nhiều đã khiến cho phim không còn cái hồn vốn có của nó trước đây. Hay nói cách khác, có lẽ phim không thành công mà là do cái bóng của phần một quá lớn. Kĩ xảo phần 2 tiến triển rất nhiều và được xem là phát huy hiệu quả tối ưu các pha thần thông, thế nhưng chính kĩ xảo quá công phu này khiến cho những trận đấu của Tôn Ngộ Không kéo dài gây nhàm chán cho khán giả. Phần hai hóa trang của các nhân vật cũng không mấy sắc xảo hay không có sự phân biệt rõ ràng. Âm nhạc sử dụng cho phần hai cũng là nguyên nhân thất bại cho phim, nếu như phần một, âm nhạc đã khiến cho phim thành công thì chính phần hai, âm nhạc đã được thay mới hoàn toàn.
  1. 險渡通天河 – Hiểm độ Thông Thiên hà: thầy trò gặp nạn sông Thông Thiên,tương ứng nguyên tác hồi 47-48;
  2. 師徒生二心 – Sư đồ sanh nhị tâm: thu phục Linh Cảm đại vương, Ngộ Không trừ cướp, tương ứng nguyên tác hồi 49, 56-58;
  3. 真假美猴王 – Chân giả Mĩ Hầu Vương: nạn Ngộ Không thật giả, tương ứng nguyên tác hồi 58;
  4. 受阻獅駝嶺 – Thụ trở Sư Đà Lĩnh: thầy trò gặp nạn Thanh Sư, tương ứng nguyên tác hồi 58, 74;
  5. 遇仙孔雀台 – Ngộ Tiên Khổng Tước đài: yêu Thanh Sư, Bạch Tượng hại thầy trò, tương ứng nguyên tác hồi 75-76;
  6. 如來收大鵬 – Như Lai thu Đại Bàng: Phật Tổ trừ yêu Đại Bàng, thoát nạn tiên Khổng Tước, tương ứng nguyên tác hồi 77, 43;
  7. 情斷黑水河 – Tình đoạn Hắc Thủy Hà: Ma Ngang thái tử giúp trừ Đà Long, tương ứng nguyên tác hồi 43, 10;
  8. 收伏青牛怪 – Thu Phục Thanh Ngưu quái: Thác Tháp Lý thiên vương và Na Tra giúp trừ Thanh Ngưu quái, tương ứng nguyên tác hồi 50-51;
  9. 祈雨鳳仙郡 – Kỳ vũ Phụng Tiên quận: Thanh Ngưu bị Thái Thượng Lão Quân bắt, giúp trừ hạn quận Phụng Tiên, tương ứng nguyên tác hồi 52, 87;
  10. 大鬧披香殿 – Đại náo Phị Hương điện: Ngọc Đế phải làm mưa quận Phụng Tiên, tương ứng nguyên tác hồi 87, 67;
  11. 絕域變通途 – Tuyệt vực biến thông đồ: trừ Mãng Xà tinh, gặp nạn Báo Tử tinh, tương ứng nguyên tác hồi 67, 86;
  12. 淚灑隱霧山 – Lệ tẩy Ấn Vụ Sơn: trừ Báo Tử tinh, qua Tỉ Khâu quốc, tương ứng nguyên tác hồi 86, 78;
  13. 救難小兒城 – Cứu nạn Tiểu Nhi Thành: gặp Hồ Li Tinh ở Tỉ Khâu quốc, tương ứng nguyên tác hồi 78-79;
  14. 緝盜菩提城 – Tập đạo Bồ Đề Vực: thầy trò gặp Khấu viên ngoại huyện Địa Linh, tương ứng nguyên tác hồi 79, 88, 96-97;
  15. 還魂寇善人 – Hoàn hồn khấu thiện nhân: cứu Khấu viên ngoại, tương ứng nguyên tác hồi 97, 91;
  16. 觀燈金平府 – Quan đăng Kim Bình phủ: Tây Hải long công chúa giúp thu phục ba Tê Ngưu tinh, tương ứng nguyên tác hồi 91-92.

Diễn viên

Phần một

Phần II

Một số sự khác biệt nội dung so với nguyên tác

Tây Du Ký 1986 thường được xem là bộ phim dựng khá sát nguyên tác, với bố cục ngắn gọn, không rườm rà. Tuy nhiên có một số chi tiết dựng khác nguyên tác, thể hiện sự sáng tạo của đoàn phim.
  • Nạn tại Diệt Pháp quốc được dựng chung với nạn tại Ngọc hoa châu
  • Nạn Bọ cạp tinh đan xen với nạn Nữ nhi quốc. Ở nguyên tác Đường Tăng không có cảm tình với Nữ vương thì ở bản này lại dựng có phần khác đi
  • Thêm nhân vật Cao lão phu nhân trong nội dung thu phục Trư Bát Giới
  • Nội dung thu phục Tiểu Bạch long có thêm thắt chi tiết về quan hệ giữa Tiểu Bạch Long với Vạn thánh công chúa, và nạn thu phục Cửu đầu trùng cũng có sự thêm thắt nội dung
  • Nạn Hắc hùng tinh, bỏ nhân vật Lăng Hư
  • Nạn thu phục Ngọc thố, bỏ chi tiết về Thái Âm tinh quân
  • Bỏ qua hồi 11 nguyên tác
  • Thêm nhân vật Hắc hồ tinh nạn Bạch cốt tinh và Hoàng bào quái
Ngoài ra phim cũng có sự khác biệt với truyện trong xây dựng hình tượng nhân vật ( các nhân vật chính đều có sự thay đổi đáng kể về hình dạng và tính cách), và cả tư tưởng, được xem là chịu ảnh hưởng tư tưởng chính thống của nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lúc bấy giờ.
Phần hai sản xuất năm 1998 do làm dưới dạng thuật lại cho đầy đủ nội dung nên kịch bản có nhiều biến đổi, thêm thắt nhiều nhân vật, chủ yếu là các nhân vật nữ như: Khổng tước công chúa (trong truyện chỉ mô tả qua lời Phật tổ), Hắc thủy hà công chúa, Tây hải long công chúa, Julia (Châu Lệ Á - con Khấu viên ngoại), vợ anh tiều phu (thê tiều tử) nạn Báo tử tinh, thôn phụ quận Phụng Tiên,...

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Đài truyền hình Việt Nam công chiếu năm 1990, phát lại năm 1991, HTV7 phát sóng các năm 1991 - 1992- 1993 - 1994 - 1995 và phát lại liên tục từ năm 1999 - 2000, HTV9 phát sóng năm 1991 -1992 - 1993 - 1995 - 1997 - 1998 - 2001 - 2002, VTV phát sóng năm 1998 - 2002 - 2007, Đồng Nai, Tiền Giang, Hà Tây, Vĩnh Long, Ninh Bình..v..v..đều ít nhất một lần trình chiếu, 2007 - 2008 - 2009 thêm HTVC - VTVC - BCTV - VTV3 và 2010 là VCTV1, VTC1, VTV1, VTV2
  2. ^ Diễn viên phim "TÂY DU KÍ" 72 phép thần thông - Những siêu diễn viên quần chúng
  3. ^ Tập 24: Thiên Trúc thâu ngọc thố và tập 25: Ba thăng Cực lạc thiên
  4. ^ Các lần bị đứt dây cáp được phát sóng trên đài CCTV vào mùa xuân năm 1987
  5. ^ Uông Việt đóng các tập 6, 9,10.
  6. ^ Từ Thiếu Hoa đóng các tập 4, 5, 7, 8, 11, 12, 14, 15, 16
  7. ^ Trì Trọng Thoại đóng các tập 13, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25

Liên kết ngoài



Nhạc phim Tây du ký (phim truyền hình 1986)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Hình ảnh trong tập phim "Đường Tăng ở Tây Lương nữ quốc"
Có thể nói, bộ phim Tây Du Kí phiên bản 1986 là tập hợp các ca khúc và thành công của phim một phần chính nhờ các ca khúc này.
Với 25 tập phim, bộ phim có đến 20 ca khúc sử dụng trong phim và có 30 khúc hòa tấu.
Ngoài một ca khúc chủ đề cuối phim "Đường chúng ta đi"- Cảm vấn lộ tại hà phương (敢问路在何方 (片尾曲)) do Tưởng Đại Vi (蒋大为) hát, còn có các ca khúc nằm rải rác ở các tập phim. Nhiều ca khúc trong phim được nhiều nghệ sỹ sau này hát lại.
Âm nhạc sử dụng cho phần hai cũng là nguyên nhân thất bại cho phim, nếu như phần một, âm nhạc đã khiến cho phim thành công thì chính phần hai, âm nhạc đã được thay mới hoàn toàn.

Mục lục

Danh sách ca khúc

  • "Đường chúng ta đi"- Cảm vấn lộ tại hà phương (敢问路在何方 (片尾曲))
  • Đại náo Thiên Cung (Tập 3: Đại Thánh Náo Thiên Cung)
  • Thủ kình quy lai (取经归来)(Tập 25: Ba thăng cực lạc thiên), Tưởng Đại Vi hát
Tập 16: Tây Quốc Nữ Giới có 3 ca khúc:
·         Tình Nữ Nhi (女儿情 (), Ngô Tĩnh hát trong phim phiên bản gốc, phiên bản phát hành hiện tại Lý Linh Ngọc hát
·         nhạc Đường Tăng ở Tây Lương Nữ (trong giấc mơ)
·         Đường Tăng ở Tây Lương Nữ Quốc- Tương kiến nan biệt diệc nan (相见难别亦难), Ngô Tĩnh hát bản gốc, và bản sửa (có tài liệu viết bản phát hành rộng rãi hiện do Lý Linh Ngọc hát)
  • Trời Quang Nguyệt Nhi Minh
  • Thanh Thanh Cây Bồ Đề (青青菩提树) (Tập 25 Ba thăng cực lạc thiên), Diêm Túc viết lời, Hứa Cảnh Thanh soạn nhạc, Lý Tĩnh Nhàn hát
  • 500 năm ruộng dâu biển cạn- "Ngũ bách niên tang điền thương hải (五百年桑田沧海) (Tập 5: Hầu Vương hộ Đường Tăng), Uất Quân Kiếm hát
  • 500 năm dưới Ngũ Hành Sơn. (Tập 4:Giam dưới Ngũ Hành Sơn)
  • Vô Đáy Thuyền Ca (Tập 25: Ba Thăng Cực Lạc Thiên), Diêm Túc viết lời, Hứa Cảnh Thanh soạn nhạc, Diệp Mao hát
  • Thiên Trúc Thiếu Nữ (天竺少女) (Tập 24: Thiên Trúc thâu Ngọc Thố'), Lý Linh Ngọc hát
  • Thủ Kình Quy Lai (Tập 25: "Ba thăng cực lạc thiên"), Đới Anh Lộc viết lời, Hứa Cảnh Thanh soạn nhạc, Tưởng Đại Vi hát
  • Đại Thánh Ca (Tập 3: Đại Thánh náo Thiên Cung), Hồ Dần Dần hát
  • Tề Thiên Đại Thánh Tôn Ngộ Không
  • Phong Vũ Hành Lộ Nan
  • Tiêu Dao Tự Tại Đích Tôn Đại Thánh
  • Hà Tất Tây Thiên Vạn Lý Dao - Bài ca Hạnh Tiên (何必西天万里遥) (Tập 19: Đánh nhầm Tiểu Lôi Âm), Diêm Túc viết lời, Hứa Cảnh Thanh soạn nhạc, Ngô Tĩnh hát
  • Sắp đến Tây Phương
  • Bị Thầy đuổi vì đánh chết Bạch Cốt Tinh- Xuy bất tán giá điểm điểm sầu (Tập 10: Ba lần đánh Bạch Cốt Tinh), Diêm Túc viết lời, Hứa Cảnh Thanh soạn nhạc, Uất Quân Kiếm hát
  • Lên quét Bảo Tháp Xá Lợi- Tình không nguyệt nhi minh (晴空月儿明) (Tập 18: Quét tháp giải oan), Diêm Túc viết lời, Hứa Cảnh Thanh soạn nhạc, Trì Trọng Thoại hát
  • Đại náo Thiên Cung
  • Đường Tăng trữ hoài (唐僧抒怀) -Tâm sự Đường Tăng, Diêm Túc viết lời, Hứa Cảnh Thanh phổ nhạc, Trì Trọng Thoại hát
  • Ca khúc chủ đề: Đường chúng ta đi, sử dụng thử nghiệm khi phát sóng 2 tập năm 1984, và 11 tập năm 1986 do Trương Bạo Quân hát, đến năm 1988 chính thức do Tưởng Đại Vi hát.
  • Bài 云荡荡海茫茫, do Tưởng Đại Vi hát, bài hát chính trong tập "Trừ yêu Ô Kê quốc" phiên bản thử nghiệm năm 1982.
  • 百曲千折显精诚, do Vương Lập Bình viết lời, soạn nhạc, do Ngô Nhạn Trạch xướng, là bài chủ đề 2 tập phát năm 1984, sau đến 1986 thì 西游记序曲 thay thế.
  • 走啊走, do Diêm Túc viết lời, Hứa Cảnh Thanh phổ nhạc (tập 4), bản phát năm 1986 do Lý Tĩnh Nhàn hát, sau phát 1988 toàn bộ các tập do Chu Lập Phu hát.
  • Bài 他多想是棵小草 - Diêm Túc viết lời, Hứa Cảnh Thanh soạn nhạc, Ding Xiao Qing - Đinh Tiểu Thanh xướng (tập 4), dùng trong bản phát năm 1986, sau đó bản phát năm 1988 là bài Ngũ bách niên tang điền thương hải- Uất Quân Kiếm xướng, thay thế.
  • 生无名本无姓, do Phó Lâm, Hiểu Lĩnh viết lời, Hứa Cảnh Thanh soạn nhạc, và Hoàng Tiểu Quần hát, có bản Vương Tiểu Thanh hát, sau được thay thế bằng bài Đại thánh ca, do Diêm Túc viết lời, Hứa Cảnh Thanh soạn nhạc, Hồ Dần Dần hát, chính thức từ 1988.
Tưởng Đại Vi và Hồ Dần Dần đã hát các bài nêu trên từ chương trình Tề Thiên Lạc năm 1986, chào xuân 1987. Bản Cảm vấn lộ tại hà phương trong phim khác với tại chương trình Tề Thiên lạc.
Ngoài ra các bản sau này có bản có một số sửa lại nhạc phim khác. Một số chèn thêm 猪八戒之歌 - 马国光, 猪八戒背媳妇 - 贾斌 hay 吹不散这点点愁 - 牟玄甫, hay bài Ngũ bách niên tang điền thương hải - đồng ca.

Các ca khúc sử dụng trong phim để lại ấn tượng cho người xem và trở thành những ca khúc bất hủ được nhiều thế hệ đón nhận. Ca từ và giai điệu của các ca khúc nhẹ nhàng, dễ nhớ và dễ dàng đi vào lòng người xem. Các đoạn hòa tấu trong phim:

  • Nhạc đầu phim: 序曲(主题曲)
  • Vũ Khúc: Thiên Đình ca - xuấn hiện ở tập 4: Giam dưới Ngũ Hành Sơn.
  • Vũ khúc: Dùng phép trêu Bát Giới- xuấn hiện ở tập 8: Đường Tăng 3 lần gặp nạn.
  • Vũ khúc: Tôn Ngộ Không loạn bàn đào - xuấn hiện ở tập 3: Đại Thánh náo Thiên Cung (trường đoạn giáp mặt Xích Cước Đại tiên)
  • Vũ khúc: Yêu Quái - xuất hiện tập 11: Hoàng Bào lão Quái.
  • Vũ khúc: Mở màn.
  • Vũ khúc: Học võ - xuất hiện ở tập 1: Hầu vương xuất thế.
  • Vũ khúc: Gian nan - xuất hiện tập 11 - Hoàng Bào lão yêu.
  • Vũ khúc: Tiên nữ hay vũ khúc đời Đường - xuất hiện tập 3: Đại Thánh náo Thiên Cung.
  • Hòa tấu: Cung Quảng Hằng
  • Hòa tấu: Khúc nhạc Bật Mã Ôn, xuất hiện tập 3: Đại Thánh náo Thiên Cung.
  • Hòa tấu: Cầu Duyên, xuất hiện ở tập 4: Giam dưới Ngũ Hành Sơn
  • Hòa tấu: Khúc Tứ Thanh động xuất hiện ở tập 22: Tứ Thám động vô đáy
  • Hòa tấu: Khúc ca tự do của loài khỉ, xuất hiện ở tập 1: Hầu vương xuất thế
  • Hòa tấu: Đứa bé trên dòng sông - xuất hiện ở tập 4: Giam dưới Ngũ Hành Sơn.
Các ca khúc chính phần hai:
  • 心中有路是坦途 - 迟重瑞
Xin Zhong You Lu Shi Tan Tu – Chi Chong Rui [Trì Trọng Thuỵ]
  • 通天大道宽又阔 (西游记续主题曲) - 崔京浩&三叶草
Tong Tian Da Dao Kuan You Kuo – Cui Jing Hao & San Ye Cao [Thôi Kinh Hạo & Tam Diệp Thảo]
  • 就这样走 - 陈小涛
Jiu Zhe Yang Zou – Chen Xiao Tao [Trần Tiểu Đào]
  • 留不住去也难 - 李殊
Liu Bu Zhu Qu Ye Nan – Li Shu [Lý Thù]
  • 西游记大联唱
Xi You Ji Da Lian Chang

Một số ca khúc

Đường đi ở nơi đâu?

Cảm vấn lộ tại hà phương? (Hán tự: 敢問路在何方? / Dám hỏi đường ở nơi đâu?) là một bài hát Trung Quốc, nguyên từ của Diêm Túc (閻肅) được Hứa Cảnh Thanh (許鏡清) phổ nhạc. Đây là ca khúc chính của phim Tây Du Kí 1986, được phát ở phần mở đầu và kết thúc phim với giọng của danh ca Tưởng Đại Vĩ (蔣大為).[1] Ông hát bài này nhiều lần. Cũng nhiều bản nhạc không lời ca khúc này được phổ biến rộng rãi.
Tại Việt Nam, tựa bài hát thường được dịch là Đường đi ở nơi đâu? hay Đường đi dưới chân ta, phần lời cũng được một số người dịch.

Tương kiến nan, biệt diệc nan


Tương kiến nan, biệt diệc nan
Tương kiến nan, biệt diệc nan (gặp nhau khó, biệt li khó) nguyên từ của Diêm Túc (閻肅) được Hứa Cảnh Thanh (許鏡清) phổ nhạc, là bài hát trong bộ phim Tây Du Kí đoạn cuối của tập phim thỉnh kinh nữ nhi quốc khi Đường Tăng từ biệt nữ vương lên đường tiếp tục cuộc hành trình đến Tây Trúc thỉnh kinh. Bài hát mang tâm trạng và nỗi buồn sâu lắng của cuộc chia li giữa Tây LươngĐường Tăng khi duyên phận giữa hai người không thành. Bài hát có cùng điệu nhạc với bài Tình nhi nữ nhưng lời hát khác và cảm xúc của bài hát cũng khác hẳn so với cảm xúc ý nhị, e ấp và ca từ đầy lãng mạn, thơ mộng của bài Tình nhi nữ. Nó mang nỗi buồn của một bài thiên phú biệt li với ca từ rất quyến luyến, bin rịn khi người ra đi chỉ vì giữ chữ "đạo" và vẹn toàn lời hứa với tổ quốc giang sơn, còn kẻ ở lại thì vương vấn đôi dòng lệ khi không thể giữ được cái "chí" của người ra đi. Trong phim gốc và bản sửa lại nhạc, bài hát do Ngô Tĩnh (吴静) thể hiện (có tài liệu viết bản phát hành rộng rãi hiện do Lý Linh Ngọc hát).
Trên các trang web nghe nhạc bài hát này vẫn có tên là bài Đường Tăng ở Tây Lương nữ quốc[cần dẫn nguồn]

Tình nhi nữ

Tình nhi nữ là tên bài hát trong một tập phim của bộ phim Tây Du Kí, đạo diễn Dương Khiết (楊潔, yáng jie), Trung Quốc. Bài hát do Dương Khiết chấp lời, được Hứa Cảnh Thanh (許鏡清) phổ nhạc, trong phim phiên bản gốc xướng bởi Ngô Tĩnh (吴静), một số phiên bản phát hành sau này Lý Linh Ngọc hát. Đây là tập phim khi Đường Tăng trên đường đi Tây Trúc thỉnh kinh thì lạc vào một nữ quốc và được nữ vương của nước này mến mộ tài năng, đức độ của Đường Tăng nên muốn giữ lại.[2]
Bài hát có âm điệu và lời lẽ da diết, ngọt ngào, là tâm trạng chung của Đường Tăng và nữ vương của Tây Lương quốc. Tập phim này là một trong những tập gây được ấn tượng với người xem, vì tập này thể hiện tính bản năng con người bằng xương bằng thịt của Đường Tăng nhất. Đường Tăng vốn là một nhà sư từ bi, nhân hậu và có quyết tâm tu hành nhưng gặp phải nhiều khó khăn, dụ dỗ. Ở tập phim này, có những giới hạn mà bản thân Đường Tăng không thể vượt qua nếu không bị yêu quái cuốn đi.
Bài hát còn có tên khác là Giấc mộng nữ vương. Và một lời khác là Tương kiến nan, biệt diệc nan (gặp nhau khó, biệt ly khó) là bài hát cuối tập phim khi mà Đường Tăng từ biệt nữ vương ra đi. Ca khúc Tình nhi nữ sau được rất nhiều ca sĩ thể hiện và phổ nhạc không lời. Riêng ca sĩ Lý Linh Ngọc thu âm ca khúc này không dưới năm lần, bao gồm cả hát thêm lời ca khúc Tương kiến nan, biệt diệc nan như là lời hai và hát song ca.

Thiếu nữ Thiên Trúc

Thiếu nữ Thiên Trúc (天竺少女) hay Shaliwoa là bài hát trong phim Tây du kí, nguyên từ của Diêm Túc (閻肅) được Hứa Cảnh Thanh (許鏡清) phổ nhạc do nữ ca sĩ, diễn viên Lý Linh Ngọc trình bày. Trong tập phim Thiên Trúc bắt Ngọc Thố, Đường Tăng bị bắt kết hôn cùng công chúa Tây Trúc – do Ngọc Thố giả dạng. Tôn Ngộ Không bày kế cho sư phụ giả vờ đồng ý, rồi đêm động phòng sẽ ra tay giải cứu. Bài hát Thiếu nữ Tây Trúc cất lên trong không khí hân hoan của đám cưới giả, và tâm trạng rối bời của Đường Tăng. Bài hát mang âm hưởng dân ca Ấn Độ này trở thành một ca khúc pop cổ điển Trung Hoa nổi tiếng và sau nhiều ca sĩ thể hiện.

Chú thích

  1. ^ Ca khúc "Cảm vấn lộ tại hà phương" do Tưởng Đại Vĩ trình bày
  2. ^ Bài hát "Nữ nhi tình" do Lý Linh Ngọc trình bày

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét