Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012

Liêu Trai Chí Dị


Đọc Và Dịch Liêu Trai Chí Dị: Đọc Liêu Trai Chí Dị

Ảnh các fan làm hình ảnh của Vi tỉ trong phim





Đây là hình mà fan làm bằng PTS.




“Liêu Trai chí dị: bút ký tiểu thuyết, Thanh Bồ Tùng Linh trước, phân thập lục quyển, tứ bách tam thập nhất thiên. Tùng Linh tự Liễu Tuyền, Sơn Đông Truy Xuyên nhân. Ấu hữu dật tài, lão nhi bất đạt, cố thử thư đa tá hồ quỷ chi sự dĩ hãn kỳ bất bình, diệc hữu tùng Đường nhân truyền kỳ chuyển hóa nhi xuất dã. Phả điêu trác tự cú, mô phỏng cổ nhã, cố văn nhân đa hy duyệt chi!” (Liêu Trai chí dị: tập truyện ký, do Bồ Tùng Linh thời Thanh trưóc tác, chia làm 16 quyển, có 431 truyện. Tùng Linh tự Liễu Tuyền, người huyện Truy Xuyên tỉnh Sơn Đông. Lúc trẻ có tài hơn người, nhưng về già vẫn không thành đạt, nên sách ấy phần lớn là mượn chuyện hồ quỷ để phát tiết nỗi bất bình; cũng có khi là dựa theo các truyện truyền kỳ của người . thời Đường, thay đổi lại mà soạn ra. Câu chữ ít nhiều có gọt giũa, phỏng theo lối văn chương phong nhã thời cổ, nên văn nhân nhiều người thích xem).

“Liêu Trai chí dị: tiểu thuyết danh, phàm bát quyển, hoặc tích vi thập lục quyển, kê tứ bách tam thập nhất thiên, Thanh Bồ Tùng Linh soạn. Ký thần tiên hồ quỷ tinh mị cố sự, miêu tả ủy khúc, tự thứ tỉnh nhiên; ngẫu thuật sở văn, diệc đa giản khiết. Mỗi quyển chi mạt, thường xuyết tiểu văn. Cựu thời cực phong hành, kim sảo suy hĩ” (Liêu Trai chí dị: tên tập truyện, gồm 8 quyển, có khi tách làm 16 quyển, tổng cộng 431 truyện, do Bồ Tùng Lỉnh thời Thanh soạn. Nội dung là ghi chép lại chuyện cũ về thần tiên hồ quỷ yêu quái, miêu tả chi tiết, sắp xếp phân minh; có chỗ là kể lại chuyện mình nghe, phần lớn cũng rõ ràng ngắn gọn. Ở cuối mỗi quyển thường thêm lời bình ngắn. Ngày trước được truyền tụng rất rộng rãi, đến nay có giảm đi).



"Liêu Trai chí dị: thư danh, bát quyển, hoặc tích vi thập lục quyển, kê tứ bách tam thập nhất thiên, Thanh Bồ Tùng Linh soạn. Ký thần tiên hồ quỷ tinh mị chi sự, miêu tả ủy khúc, văn từ diễm lệ, tự thứ tỉnh nhiên; ngẫu thuật sở ván, diệc đa giản khiết. Mỗi quyển chi mạt, thường xuyết tiểu văn. Cựu thời cực phong hành" (Liêu Trai chí dị: tên sách, gồm 8 quyển, có khi tách làm 16 quyển, tổng cộng 431 truyện, do Bồ Tùng Linh thời Thanh soạn. Nội dung là ghi chép lại chuyện về thần tiên hồ quỷ yêu quái, miêu tả chi tiết, lời văn đẹp đẽ, sắp xếp phân minh; có chỗ là kể lại chuyện mắt thấy tai nghe, phần lớn cũng rõ ràng ngắn gọn. Ở cuối mỗi quyển thường thêm lời bình ngắn. Ngày trước được truyền tụng rất rộng rãi). "Liêu Trai chí dị: văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết tập, Thanh Bồ Tùng Linh tác. Lịch Thành Trương Hy Kiệt đích Chú Tuyết Trai sao bản Liêu Trai chí dị phân vi thập nhị quyển, hữu mục tứ bách bát thập bát thiên. Hiện tồn tối tảo khắc bản vi Thanh Càn Long tam thập nhất niên Thanh Kha Đình bản, tắc phân vi thập lục quyển, tứ bách dư thiên, đãn thiên mục tinh bất hoàn toàn. Giải phóng hậu hoàn phát hiện liễu tác giả đích bán bộ thủ cảo (định cảo bản), tằng ảnh ấn xuất bản, hựu hữu "Hội hiệu hội chú hội bình" bản, sở thu thiên mục hiệu vi hoàn bị. Tác giả dĩ phong phú đích tưởng tượng, tịnh tá giám đương thời lưu hành cố sự dữ tiền nhân chi tác, sáng tạo xuất bất thiểu ưu tú tác phẩm. Cấu tứ kỳ diệu, ngữ ngôn sinh động, dĩ đàm hồ thuyết quỷ đích biểu hiện hình thúc, đối đương thời hiện thực đích hắc ám hòa quan lại đích tội ác phả đa bộc lộ, vu khoa cử chế độ hòa lễ giáo đô hữu sở phê phán; tinh dĩ đồng tình bút điêu miêu hội liễu thanh niên nam nữ chân thành tương ái đích cố sự. Đãn thư trung dã tồn tại trước nhất ta nhân quả báo ứng chi thuyết hòa mê tín sắc thái” (Liêu Trai chí dị: tập truyện ngắn văn ngôn, do Bồ Tùng Linh thời Thanh sáng tác. "Bản sao Liêu Trai chí dị của Chú Tuyết Trai" của Trương Hy Kiệt ở Lịch Thành chia làm 12 quyển, có mục lục gồm 488 truyện. Bản in sớm nhất hiện còn là bản của Kha Đình thời Thanh in năm Càn Long thứ 31 (1766) thì chia làm 16 quyển, hơn 400 truyện, nhưng mục lục cũng không đầy đủ. Sau ngày giải phóng (tức 1949, năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) lại phát hiện được nửa bản viết tay của tác giả (bản thảo hoàn chỉnh), từng in ảnh xuất bản, lại có bản Hội hiệu hội chú hội bình thu thập mục lục đầy đủ hơn cả. Tác giả lấy trí tưởng tượng phong phú, mượn các truyện cổ lưu hành đương thời và các sáng tác của người trước mà sáng tạo ra không ít tác phẩm ưu tú. Kết cấu hay lạ, lời lẽ sinh động, lấy hình thức biểu hiện là chuyện yêu ma hồ quỷ, vạch trần sự đen tối của hiện thực và tội ác của quan lại đương thời, đối với chế độ khoa cử và lễ giáo đều có sự phê phán; lại tỏ thái độ đồng tình khi miêu tả những chuyện cổ về tình yêu chân thành của thanh niên nam nữ. Song trong sách cũng còn tồn tại một ít quan niệm nhân quả báo ứng và màu sắc mê tín). "Liêu Trai chí dị: Thanh đại kiệt xuất đích văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết tập. Tác giả Bồ Tùng Linh, thư thành vu Khang Hy niên gian. Thư phân thập nhị quyển, kê tứ bách cửu thập nhất thiên, 1962 niên Trung Hoa thư cục bài ấn bản. Thư trung cố sự đại đa dĩ hồ tiên quỷ mị vi đề tài, cấp phú lãng mạn chủ nghĩa sắc thái nhi hựu câu hữu phong phú đích nội dung hòa thâm khác đích hiện thục chủ nghĩa. Nội dung bao quát đối tham quan ô lại sĩ hào thế thân dĩ cập phủ hủ đích khoa cử chế độ đích khể lộ, đối thanh niên nam nữ chân chính ái tình hôn nhân đích nhiệt tình ca tụng; thử ngoại hoàn hữu nhất ta hữu giáo đục ý nghĩa đích ngụ ngôn cố sự đẳng. Giá ta nội dung chủ yếu bộc lộ liễu phong kiến xã hội đích hắc ám hòa hủ bại, dĩ cập tác giả đối lý tuởng thế giới hòa mỹ hảo nhân vật đích truy cầu, ca tụng. Tiểu thuyết sung mãn kỳ dị khôi lệ đích ảo tưởng, tố tạo nhân vật hủ hủ nhi sinh, hô chi dục xuất, tình tiết điệt đãng đàng ná, sinh động đa biến. Ngử ngôn tinh luyện hàm súc, văn bút lưu sướng truyền thần, “Tả quỷ tả yêu cao nhân nhất đẳng, thích tham thích ngược nhập cốt tam phân", câu hữu độc đặc đích phong cách, tại ngã quốc tiểu thuyết sử thượng chiếm hữu hẩn cao đích địa vị. Đãn thư trung dã tồn tại truớc phong kiến luân lý quan niệm hòa phong kiến sắc thái" (Liêu Trai chí dị: tập truyện ngắn văn ngôn kiệt xuất thời Thanh. Tác giả là Bồ Tùng Linh, sách hoàn thành trong đời Khang Hy (1662-1722). Sách thia làm 12 quyển, gồm 491 truyện, năm 1962 Trung Hoa thư cục đã sắp xếp xuất bản. Truyện trong sách phần lớn là lấy đề tài hồ tiên ma quỷ, có nhiều màu sắc của chủ nghĩa lãng mạn, lại mang nội dung phong phú và chủ nghĩa hiện thực sâu sắc. Nội dung nói chung là tố cáo bọn tham quan ô lại, cường hào ác bá và chế độ khoa cử mục nát, nhiệt tình ca ngợi tình yêu và hôn nhân chân chính của thanh niên nam nữ, ngoài ra còn có một ít truyện cổ loại ngụ ngôn có ý nghĩa giáo dục. Nội dung nói trên chủ yếu là vạch trần sự đen tối và mục ruỗng của xã hội phong kiến đồng thời nói lên sự mong mỏi, ngợi ca của tác giả về một thế giới lý tưởng và những con người tốt đẹp. Tập truyện đầy ắp những sự tưởng tượng lạ lùng đẹp đẽ, nhân vật được sáng tạo sống động chân thực, tình tiết bất ngờ biến ảo. Lời lẽ gọt giũa hàm súc, văn chương trôi chảy linh hoạt, "Tả quỷ tả ma cao bậc nhất, châm tham châm bạo thấu vào xương” đều có phong cách độc đáo đặc biệt, chiếm địa vị rất cao trong lịch sử truyện ngắn của nước ta. Nhưng trong sách cũng còn tồn tại quan niệm luân lý phong kiến và màu sắc phong kiến).



"Liêu Trai chí dị: Thư danh, Thanh Bồ Tùng Linh (1640-1715) trước. Đoản thiên tiểu thuyết tập, thập nhị quyển, nhất tác thập lục quyển, cộng tứ bách tam thập nhất thiên. Tối tảo hữu Chú Tuyết Trai sao bản, Càn Long tam thập nhất niên (1766 niên) Thanh Kha Đình khắc bản, nhị giả phân quyển, thiên mục lược dị. 1949 niên hậu phát hiện bán bộ thủ cảo, 1955 niên do Văn học Cổ tịch san hành xã ảnh ấn, 1978 niên Thuợng Hải Cổ tịch xuất bản xã hữu Trương Hữu Hạc tập hiệu "Hội hiệu hội chú hội bình" bản, hiệu hoàn bị. Cai thư hàm truyền kỳ, chí quái, dị sự đẳng nội dung. Nhiên đa tả hồ quỷ, yêu biến, dị quái cố sự, nghệ thuật thủy bình trăn chí văn ngôn tiểu thuyết đỉnh phong" (Liêu Trai chí dị: tên sách, Bồ Tùng Linh (1640-1715) thời Thanh sáng tác, là tập truyện ngắn, gồm 12 quyển, có khi chia làm 16 quyển, cộng 431 truyện. Cổ nhất có bản sao của Chú Tuyết Trai, năm Càn Long thứ 31 (1766) Kha Đình khắc bản, hai bản chia quyển, mục lục hơi khác nhau. Sau 1949 phát hiện được nửa bản viết tay của tác giả, năm 1955 Văn học cổ tịch san hành xã in ảnh xuất bản, năm 1978 Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã có bản "Hội hiệu hội chú hội bình" của Trương Hữu Hạc tập hợp so sánh các bản, đầy đủ hơn cả. Sách này mang nội dung truyền kỳ, chí quái, việc lạ, nhưng phần lớn kê chuyện cổ hồ quỷ, yêu ma, quái dị, về trình độ nghệ thuật thì đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết văn ngôn).



Trên đây là sáu định nghĩa về mục từ "Liêu Trai chí dị” nêu trong sáu quyển từ điển của Trung Hoa mà theo thứ tự là Từ nguyên (Chính tục biên hợp đính bản), Thương vụ ấn thu quán xuất bản, Thượng Hải, 1939; Từ hai (hợp đính bản), Trung Hoa thư cục xuất bản, Thuợng Hải, 1948; Trung văn đại từ điển. Trung Quốc văn hóa Nghiên cứu sở xuất bản, Đài Bắc, 1962 Từ hải, Tân thư xuất bản xã, Thượng Hải, 1989; Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển, Tác giả xuất bản xã, Bắc Kinh, 1991 và Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển, Quảng Tây dân tộc xuất bản xã, 1994. Dễ nhận ra rằng đặc điểm về mục đích và hoàn cảnh biên soạn riêng biệt của mỗi quyển từ điển đã dẫn tới những khác biệt giữa các định nghĩa nói trên, sự khác biệt thể hiện và phản ảnh quá trình nhận thức và tìm hiểu của người đọc Trung Hoa về Liêu Trai chí dị, song tựu trung sáu định nghĩa ấy đều đề cập tới bốn yếu tố là văn bản, nội dung, ý nghĩa và nghệ thuật của tác phẩm. Việc tìm hiểu giá trị tác phẩm khởi đi từ tổng thể các yếu tố ấy có thể góp phần làm sáng tỏ thêm giá trị và ảnh hưởng của Liêu Trai chí dị, một kiệt tác hàng trăm năm qua từng làm say mê nhiều người đọc Việt Nam.



Về văn bản, Liêu Trai chí dị có một nét đặc biệt. Theo Từ hải 1989 và Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991 thì Liêu Trai chí dị gồm 12 quyển, 488 hay 491 truyện. Các con số trên rõ ràng là dựa theo bản Hội hiệu hội chú hội bình, mà bản này dựa trên cơ sở nửa bản chép tay của Bồ Tùng Linh được phát hiện sau 1949. Tuy nhiên, sự ghi nhận về văn bản Liêu Trai chí dị ở Trung Quốc cũng khá phức tạp. Chẳng hạn Từ nguyên năm 1939 kể là có 16 quyển, 431 truyện, Từ hải 1948 kể là có 8 hoặc 16 quyển, 431 truyện, đến Trung văn đại từ điển xuất bản ở Đài Loan năm 1962 thì vẫn kể ra 8 hoặc 16 quyển, 431 truyện như Tù hải 1948. Tù hải 1989 không nêu rõ, nhưng cũng cho rằng bản Hội hiệu hội chú hội bình là đầy đủ hơn cả, tức cũng tán thành con số 12 quyển, 491 truyện như Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991. Nhưng Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển 1994 lại kể ra 12 (hoặc 16) quyển, 431 truyện, nghĩa là lại quay về với các văn bản truyền thống. Nét đặc biệt này không gì khác hơn là ánh phản của quá trình phổ biến Liêu Trai chí dị ở Trung Quốc nói riêng và ở các quốc gia dùng chữ Hán trước đây nói chung. Chúng tôi không có được các bản in Liêu Trai chí dị 12 quyển để đối chiếu, nhưng Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển có kể ra một số truyện thuộc "Văn hóa Ma Trung Quốc” theo mục lục của các bản này, cụ thể như sau:



Khảo Thành hoàng, Thi biến, Đồng nhân ngữ, Giáo quỷ, Vương Lục lang, Trường Thanh tăng, Tăng nghiệt, Tú thập thiên, Vương Lan, Ung hổ thần, Hoa bì, Thiểm Hữu Mỗ Công, Miếu quỷ, Lục phán, Nhiếp Tiểu Thiến, Thủy mãng thảo, Cảnh Thập bát thuộc quyển I.



Châu nhi, Liên Hương, Trương Thành, Xảo nương, Ngô huyện nhị Thành hoàng, Lâm Tứ nương thuộc quyển II.



Giang trung quỷ quái, Lỗ Công nữ, Lý Trung Chi, Lý Bá Ngôn, Liên Toa, Nê quỷ, Liên Thành, Hoắc sinh, Dụ quỷ, Lý Tư giám thuộc quyển III.

Công Tôn Cửu Nương, Xúc chức, Thổ địa phu nhân, Tục  hoàng lương, Liễu Tú tài, Phong Đô Ngự sử, Kỳ quỷ, Tửu cuồng Mục sinh, Bố khách thuộc quyển IV. Chương A Đoan, Lý Thường Cửu kiến Diêm Vương, Thổ ngẫu sinh tử, Trường Trị nữ tu, Ngũ Thu Nguyệt, Liễu thị tử, Đậu thị thuộc quyển V.



Thu Dung dữ Tiếu Tạ, Ải quỷ, Khao tệ ty, Hướng Cảo, Nhiếp Chính xích quyền quý thuộc quyển VI. Mai nữ hòa Phong Vân Đình, Tư tăng bão Phật đầu, Ngưu Thành Chương, Kim Cô phu, Diêm La hoăng, Chu Thương bình oan ngục, Hoạn Nương thuộc quyển VII. Quỷ thê, Chư sinh, Tư văn lang, Trần Tích Cửu, Chu Khắc Xương thuộc quyển 8. Vu Khứ ác, ái Nô, Lưu  phu nhân, Ấp nhân tao lăng trì thuộc quyển IX. Bố thương bị cứu, Tịch Phương Bình, Long Phi tướng Công, Thân thị, Nhiệm  Tú thuộc quyển X. Vãn Hà dữ A Đoan, Vương Thập, Gia Bình Công tử, Chiết lâu nhân thuộc quyển XI. Lão Long thuyền hộ, Cổ bình, Nguyên Thiếu tiên sinh, Tiết Ủy nương, Điền Tử Thành, Lưu Toàn, Hoàn hầu yến tân, Cẩm Sắt, Phòng Văn Thục, Công Tôn Hạ thuộc quyển XlI.

Ngoài một số truyện có tên khác với trong các bản 16 quyển như Giang trung quỷ quái (Giang trung, quyển XIV), Lý Trung Chi (Diêm La, quyển XIV), Tửu cuồng Mục sinh (Tửu cuồng, quyển XlV), Lý Thường Cửu kiến Diêm Vương (Diêm Vương, quyển XV), Thổ ngẫu sinh tư (Thổ ngẫu, quyển XV), Thu Dung dữ Tiểu Tạ (Tiểu Tạ, quyển IX), Nhiếp Chính hách quyền quý. (Nhiếp Chính, quyển VIII), Mai nữ hòa Phong Vân Đình (Mai nữ, quyển VII), Tử tăng bão Phật đầu (Tử tăng, quyển XIV), Chu Thương bình oan ngục (Oan ngục, quyển IX), Ấp nhân tao lăng trì (ấp nhân, quyển XVI), Bố thương bị cứu (Bố thương, quyển XI), Vãn Hà dữ A Đoam (Vãn Hà, quyển IV), Hoàn hầu yến tân (Hoàn hầu, quyển XII), thì theo nội dung được tóm tắt, có một số truyện không thấy có trong các bản 16 quyển như Ngô Huyện nhị Thành hoàng, Dụ quỷ, Thô địa phu nhân (ngoài  ra, bản dịch Liêu Trai chí dị ra chữ quốc ngữ la tinh vào loại sớm nhất ở miền Bắc là Tân Liêu Trai của Vũ Hi Tô * dịch 8 truyện Hương Ngọc, Thư si, Lỗ Công nữ, Phòng Dỹ, Phượng Tiên, Lục y nữ, Chúc Thanh, Chức Thành thì truyện Phòng Dỹ cũng không thấy có trong các bản Liêu Trai chí dị 16 quyển). Tuy nhiên, đó chính là các truyện Ngô lệnh, Dụ quỷ, Nữ quỷ trong Liêu Trai chí dị thập di **. Nhưng đáng nói là chính Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển cũng vừa ghi nhận các truyện Ngô Huyện nhị Thành hoàng, Dụ quỷ, Thổ địa phu nhân trong Liêu Trai chí dị vừa ghi nhận các truyện Ngô lệnh, Dụ quỷ, Nữ quỷ trong Liêu Trai chí dị thập di: rõ ràng các bản Liêu Trai chí dị 12 quyển đã gộp cả Liêu Trai chí dị thập di. Tóm lại Liêu Trai chí dị 12 quyển là sự hợp nhất Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí dị thập di của Bồ Tùng Linh. Có lẽ sau khi biên soạn Liêu Trai chí dị thập di, Bồ Tùng Linh đã tiến hành hợp nhất cả hai làm một với kết cấu 12 quyển có sửa chữa, bổ sung. Công việc này hoặc chưa hoàn tất, hoặc một nửa bản thảo của bản "tập đại thành” nói trên đã bị mất. Cần nói thêm rằng bản Hội hiệu hội chú hội bình cũng có những chỗ chưa hợp lý: nhan đề truyện Mai nữ đã đuợc đổi thành Mai nữ hòa Phong Vân Đình (Cô gái họ Mai và Phong Vân Đình), từ “hòa" (và) này không phải của văn pháp văn ngôn thời Bồ Tùng Linh mà là của văn chương bạch thoại... Rõ ràng vấn đề văn bản Liêu Trai chí dị chưa phải đã chấm dứt ở bản Hội hiệu hội chú hội bình, nên tình hình nói trên cũng cho phép người ta yên tâm khi đọc các văn bản truyền thống gồm Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí dị thập di.



* Tân Liêu Trai, Transcrit en quốc ngữ par Vũ Hi Tô, 1er édition, Đỗ Văn thư quán (ấn). Sửa lại và giữ quyền lợi: Phù Văn Librairie, Hà Nội, 1921-1922. Tất cả 2 quyển, quyển 1 có các truyện Tích nàng Hưong Ngọc (Hương Ngọc), Thư si, Lỗ Công nữ, Phòng Dỹ (?), quyển 2 có các truyện Phương Tiên, Lục y nữ, Chúc Thanh, Chúc Thành.

**. Ở đây chúng tôi theo văn bản trong Liêu Trai chí dị thập di, Minh Đức Đồ thư Công ty xb., Hương Cảng, 1961.



Về Liêu Trai chí di thập di, Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển định nghĩa như sau “Liêu Trai chí dị thập di. Thư danh, Thanh Bồ Tùng Linh soạn, bút ký tiểu thuyết tập, nhất quyển. Cai thư vi Liêu Trai chí dị thập di bộ phận, hữu Dân quốc so niên Thượng Hải Tiến bộ đồ thư cục thạch ấn bản, Bút ký tiểu thuyết đại quan bản. Nội dung đồng tiền thư, thư trung thu hữu Dụ quỷ, Nữ quỷ, Quỷ lại đảng đa điều quỷ thoại" (Liêu Trai chí dị thập di. Tên sách, Bồ Tùng Linh thời Thanh soạn, là một tập bút ký tiểu thuyết, một quyển. Sách này là phần bổ sung của Liêu Trai chí dị, có bản thạch ấn của Thượng Hải Tiến bộ đồ thư cục và bản Bút ký tiểu thuyết đại quan đầu thời Dân quốc. Nội dung cũng như sách trước, thu thập nhiều chuyện ma nhu Dụ quỷ, Nữ quỷ, Quỷ lại). Theo bản Liêu Trai chí dị thập di, Minh Đức Đồ thư Công ty tái bản, Hương Cảng, 1961 mà chúng tôi sử dụng, quyển Thập di này có tất cả 68 truyện (xem Mục lục)



Về con số 431 truyện thì có điểm hơi lạ, vì bản Tường chú Liêu Trai chí di đồ vịnh, Quảng Trí thư cục, Hương Cảng, 1961 (ảnh ấn lại bản in thạch bản Tường chú Liêu Trai chí dị đồ vịnh năm Quang Tự thứ 12 - 1886, gọi tắt là bản Hương Cảng) và bản Túc bản Liêu Trai chí dị, Đại Trung Quốc Đồ thư Công ty, Đài Bắc, 1963 (gọi tắt là bản Đài Bắc) đều có 432 truyện (Từ điển tác gia văn học và sân khấu nước ngoài, Hữu Ngọc chủ biên, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1980 cũng ghi nhận con số này). Trong hoàn cảnh tư liệu hiện nay chúng tôi chưa tìm hiểu được vấn đề nói trên, nên căn cứ vào thực tế văn bản của hai bản Hương Cảng và Đài Bắc có trong tay, tạm thời chấp nhận con số 432 truyện. Như vậy, kể cả 68 truyện trong quyển Thập di, Liêu Trai chí di có đúng 500 truyện, không kể một số truyện trong các tài liệu khác được chép phụ vào. Tìm hiểu văn bản Liêu Trai chí dị ngoài tác dụng góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành của tác phẩm còn ít nhiều có tác dụng trực tiếp trong việc tìm hiểu nội dung và ý nghĩa các truyện trong tác phẩm. Nhìn từ kết cấu hình thức, các truyện trong Liêu Trai chí dị gồm hai loại: một loại có lời bình của tác giả, phần nhiều có ghi "Dị Sử thị nói" (193 truyện, trong đó phần Thập di có 7 truyện, nếu kể cả nhũng truyện có lời bình nhưng không ghi “Dị Sử thị nói" như Phục hỏa trong quyển II, Thủy tai trong quyển III, A Hà trong quyển VI, Thâu đào, Khâu kỹ trong quyển XIII thì có trên 200) và một loại chỉ có phần “chí dị”. Quan sát các bản 16 quyển, có thể thấy các truyện có lời bình "Dị Sử thị nói" tập trung trong khoảng mười hai quyển đầu (121/233 truyện), các truyện này nhìn chung khá dài, có bố cục chặt chẽ, cốt truyện rõ ràng, còn các truyện không có lời bình chủ yếu tập trung ở bốn quyển cuối (134/199 truyện) và quyển Thập di (61/68 truyện), nội dung khá đơn giản, thậm chí có khi chỉ gồm vài mươi chữ. Rõ ràng Liêu Trai chí dị còn đang trong giai đoạn bổ sung, sửa chữa, nhất là những truyện chỉ có phần "chí dị". Nói một cách hình tượng thì Liêu Trai chí dị giống một bộ tranh liên hoàn đang vẽ dở dang, có bức đã tỉa tót tô điểm tới từng chi tiết, nhung có búc chỉ mới có vài nét phác họa đầu tiên. Tình hình văn bản chưa hoàn chỉnh như vậy một mặt dễ đưa tới nhũng ngộ nhận về nội dung cụ thể của từng truyện, mặt khác cũng ít nhiều hạn chế việc tìm hiểu ý nghĩa đích thực của toàn bộ tác phẩm.



Về nội dung, các truyện có lời bình trong Liêu Trai chí dị nói chung mang màu sắc đạo đức, lên án bọn tham quan ô lại, phê phán những thói hư tật xấu, đề cao lương tri và lòng nhân nghĩa, ca ngợi tình yêu và sự thủy chung. Là một nhà nho tài hoa sinh bất phùng thời, tác giả Liêu Trai chí dị có điều kiện để sống cuộc sống và học cách nghĩ của nhân dân, nên các giá trị tinh thần mà ông đề cao không chỉ nằm trong khuôn khổ chuẩn mục đạo đức của các môn sinh sân Trình cửa Khổng. Ông hâm mộ viên Phán quan họ Lục hào sảng (Lục phán), ông ca ngợi nàng Anh Ninh như vô tâm mà lại hữu tâm (Anh Ninh), ông tán thưởng thái độ nhân sinh khoáng đạt của ông già họ Chúc coi chết như về (Chúc ông), ông khoái trá về việc bọn tham quan bị quỷ thần trừng trị (Vương giả)... Cũng dễ nhận thấy các nhân vật thần tiên hồ quỷ trong Liêu Trai chí dị đều ít nhiều mang dáng vẻ thị dân, cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhân vật hồ nữ trong Liêu Trai chí dị đều khá phóng túng trong tình dục và hôn nhân, điều này có liên quan tới bối cảnh văn hóa Trung Quốc thời Minh Thanh, khi sự phát triển của tiểu thủ Công nghiệp và thương nghiệp đã dẫn tới sự hình thành các đô thị lớn với đội ngũ thị dân có lối sống phát triển theo xu thế phủ nhận các quy phạm lễ giáo phong kiến. Có thể nói trong Liêu Trai chí dị, Bồ Tùng Linh đã đứng trên lập trường đạo đức của nhân dân lao động mà chủ yếu là thị dân để khẳng  định các giá trị tinh thần tốt đẹp và lên án những thế lực chống lại con người. Dĩ nhiên lập trường và tiêu chuẩn ấy có những  mâu thuẫn nội tại cũng như những hạn chế lịch sử, như nhận định của Từ hải 1989 “trong sách cũng còn tồn tại một ít quan niệm nhân quả báo ứng và màu sắc mê tín” hay của Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991 “trong sách cũng còn tồn tại quan niệm luân lý phong kiến và màu sắc phong kiến". Tuy nhiên, đúng như K. Marx từng nhận định “Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điểu kiện trục tiếp có trước mắt, đã có sẵn và do quá khứ để lại"(1), những yếu tố ấy lại mang ý nghĩa tích cực nếu đặt vào bối cảnh xã hội Trung Quốc đương thời. Dưới chế độ phong kiến chuyên chế thời trước thì khát vọng công lý của người dân thấp cổ bé miệng chủ yếu chỉ còn là giấc mộng, nên họ đành tìm tới sự công bằng ở thế giới bên kia. Quan niệm nhân quả báo ứng có nguồn gốc từ Phật giáo vì vậy cũng mau chóng được nhân dân lao động và những người đại diện của họ tiếp nhận như một võ khí tinh thần để khẳng định hệ giá trị của mình và đấu tranh với nhũng bất công xã hội. Việc chọn lựa phương tiện không tương xứng với mục đích như thế là một điều bất đắc dĩ, nhưng rõ ràng trong giới hạn những điều kiện xã hội - nghệ thuật có thật của thời đại và xã hội mình ấy, Bồ Tùng Linh đã nỗ lục để nêu ra một thực trạng tỉnh thần mà cũng là một thông điệp nhân sinh.



1 K. Marx và F. Engels, Tuyển tập, sđd., tập II, tr. 386

Nhận định về truyện ngắn viết cho trẻ em của nhà văn Đan Mạch Hans Christian Andersen (1805-1875), có người đã nói đại ý là trong mỗi truyện ngắn của Andersen có hai câu chuyện, một dành cho trẻ em và một dành cho người lớn. Cũng có thể đưa ra một nhận dịnh tương tự về Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh, vì quả thật nhiều truyện trong tác phẩm - đặc biệt là những truyện có lời bình cũng hàm chứa hai câu chuyện, một là chuyện thần tiên hồ quỷ, một là chuyện người. Những truyện như Tiền lưu, Long hý thù, Điểu ngữ trong quyển X, Hồng mao chiên, Đạo hộ trong quyển XII, Tư huấn, Mạ áp trong quyển XIII... là những ví dụ khá tiêu biểu. Ý đồ bành trướng thế lực - chiếm đoạt thuộc địa của tư bản phương Tây đối với Trung Quốc lúc bấy giờ còn chưa rõ ràng, song hình ảnh tấm nệm Hồng Mao có thể mau lẹ "nở rộng ra hơn một mẫu” trong Hồng mao chiên đã thể hiện nhận thức và dự cảm về tai họa tới từ phương Tây tư bản của một bộ phận trí thức và nhân dân Trung Quốc thời Bồ Tùng Linh. Ý nghĩa hiện thực của Liêu Trai chí dị do đó nhiều khi trở nên sắc nét và có tác động mạnh mẽ lạ thường, vì yếu tố thần kỳ đã nâng cánh cho trí tưởng tượng không chỉ của tác giả mà còn cả của người đọc khi tiếp xúc với tác phẩm. Về phía Bồ Tùng Linh, danh hiệu “Dị Sử thị” cuối lời bình gần 200 truyện trong Liêu Traỉ chí dị còn ít nhiều cho thấy ông mong mượn bộ sách này trở thành một bộ “sử lạ” một bộ sách phản ảnh hiện thực thông qua thi pháp "thuật kỳ ký dị” (thuật chuyện hay, chép chuyện lạ) của dòng truyện truyền kỳ. Có thể nghĩ rằng những truyện chỉ có phần “chí dị” cũng được Bồ Tùng Linh thu thập để biên soạn theo đường hướng nói trên, điều này khiến yếu tố thần kỳ ở đây mang một nội dung chúc năng phức hợp.



Tìm hiểu nghệ thuật Liêu Trai chí dị, dễ nhận thấy sự hiện diện của yếu tố thần kỳ. Là đặc trưng cơ bản trong thi pháp của truyện truyền kỳ thời Đường, yếu tố thần kỳ đến Thái  bình quảng ký thời Tống đã được xác định như nội dung nghệ thuật chủ yếu của tiểu thuyết chí quái chí dị, rồi đến thời Minh Thanh đã phát triển thành một phương pháp sáng tác với các tác giả như Bồ Tùng Linh, Viên Mai. Sự vận dụng thi pháp “thuật kỳ ký dị" vào việc phản ảnh hiện thực xã hội trên đường huớng đề cao các giá trị tinh thần nhân dân - thị dân đã khiến dòng tiểu thuyết chí quái chí dị thời Minh Thanh dần dần mang nội dung hiện thực chủ nghĩa. Có thể nói đây là một loại "chủ nghĩa hiện thực huyền ảo" kiểu phương Đông thời cổ, ở đó thế giới thần tiên hồ quỷ trong trí tưởng tượng của con người đã trở thành một phương tiện đặc biệt để phản ảnh hiện thực xã hội và biểu đạt nguyện vọng nhân sinh. Nhưng khác với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo thế kỷ XX, phương pháp sáng tác này ở Bồ Tùng Linh lại có mối liên hệ máu thịt với văn hóa truyền thống, vì Liêu Trai chí dị sử dụng cốt truyện của nhiều truyện cổ lưu hành đương thời và các sáng tác của người trước”, trong đó chắc chắn có không ít là truyện kể dân gian. Không lạ gì mà Liêu Trai chí dị có thể làm say mê cả những người ít học. Bởi vì trong mọi xã hội và thời đại, các yếu tố văn hóa truyền thống luôn sống cuộc sống của chúng không chỉ trong nhũng văn hiến thư tịch hay các công trình khảo cứu của giới trí thức, mà chủ yếu và quan trọng nhất là trong cuộc sống thường nhật với những mối bận tâm chung nhất của đông đảo nhân dân. Đây cũng là một trong những lý do khiến tác phẩm này của Bồ Tùng Linh bắt đầu đuợc phổ biến rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Chắt lọc và kết tinh nhiều yếu tố tinh túy của văn hóa nhân dân, Liêu Trai chí dị mang trong nội dung tư tưởng và nội dung nghệ thuật của nó những sức mạnh to lón của truyền thống, điều này tạo ra một sự đồng cảm giữa tác phẩm với người đọc Việt Nam lúc bấy gìơ đang phải giã từ quá khứ để bước vào xã hội hiện đại trong một tư thế bị động, với một tâm thế bị động dường như vẫn không ngừng được duy trì cho đến tận hôm nay...



Dịch Liêu Trai Chí Dị


Chưa có bằng chứng để xác định thời điểm Liêu Trai chí dị bắt đầu được phổ biến qua Việt Nam, song căn cứ vào niên đại bản in sớm nhất còn lại đến nay của tác phẩm này (bản in Kha Đình năm Càn Long thứ 31 - 1766) thì có thể đoán định sau khi đất nước thống nhất trở lại đầu thế kỷ XIX, người Việt Nam đã biết tới Liêu Trai chí dị. Tình hình tư liệu hiện nay cũng chưa cho phép trả lời câu hỏi người Việt Nam có dịch Liêu Trai chí dị ra chữ Nôm không, song đã có tình hình một số truyện trong Liêu Trai chí dị được sao chép riêng rời như những truyện kể độc lập trong kho sách Hán Nôm Việt Nam, chẳng hạn tập Thư mục Di san Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (Catalogue des livres en Hán Nôm) của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tập II, tr. 99 đã kể cả truyện La Tổ trong bản La Tổ truyện ký hiệu A. 2560 vào thư mục sách Hán Nôm Việt Nam, trong khi đó là truyện La Tổ trong Liêu Trai chí dị, quyển IX: có lẽ người soạn mục từ này đã lầm tưởng địa danh "Tức Mặc” thuộc tỉnh Son Đông ở Trung Quốc trong truyện là Túc Mặc thuộc tỉnh Nam Định ở miền Bắc Việt Nam. Ngoài ra người ta cũng đã thấy trường hợp một số truyện cổ tích Việt Nam lưu truyền đến nay mang dáng dấp cốt truyện, tình tiết một số truyện trong Liêu Trai chí dị như một loại phức thể “song ngữ và song văn hóa”: rõ ràng ngoài việc phổ biến bằng văn bản, tác phẩm này còn được phổ biến với phương thức truyền miệng trong dân gian. Cũng có thể tìm thấy dấu vết ảnh hưởng của Liêu Trai chí dị trong văn học Việt Nam thế kỷ XX qua những câu thơ như “Giấc hồ thơm tóc gái Liêu Trai” của Vũ Hoàng Chương. Tất cả những điều nói trên là kết quả của quá trình tiếp nhận Liêu Trai chí dị ở Việt Nam, quá trình trong đó các bản dịch tác phẩm này ra chữ quốc ngữ latinh thế kỷ XX đóng vai trò tác nhân quan trọng.

Là khu vực sử dụng chữ quốc ngữ latinh như chữ viết chính thức đầu tiên ở Việt Nam, Nam Kỳ Lục tỉnh cũng là khu vực mà các bản dịch Liêu Trai chí dị ra chữ quốc ngữ latinh xuất hiện sớm nhất. Trước Liêu Trai chí di của nhóm Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân (5 quyển, Nhà in J. Viết, Sài Gòn) năm 1916-1918(1), người đọc Lục tỉnh đã được đọc:

bản dịch nhiều truyện trong Liêu Trai chí dị ra tiếng Việt trên báo chí quốc ngữ la tinh, chẳng hạn các bản dịch của Lương Dũ Thúc, Lương Hòa Quý, Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Đoan Khai... trên Nông cổ mín đàm từ 1901(2). Hơn thế nữa, từ Chuyện giải buồn năm 1885, Huỳnh Tịnh Của đã giới thiệu bản dịch một số  truyện trong Liêu Trai chí dị, nhưng hàng trăm năm nay nhiều người vẫn tuởng đó là truyện Việt Nam, chẳng hạn truyện Hắc quỷ (Nô lệ da đen) trong Liêu Trai chí dị, quyển XIV: Giao Châu Lý Tổng trấn mãi nhị hắc quỷ, kỳ hắc như tất, túc cách thô hậu, lập nhẫn vi đồ vãng lai kỳ thượng hào vô sở tổn. Tổng trấn phối dĩ xướng, sinh tử nhi bạch, liêu bộc hý chi, vị phi kỳ chủng. Hắc quy diệc tự nghi, nhân sát tử, cốt tắc tận hắc, thủy hối chi. Công mỗi lệnh lưỡng quỷ đối vũ, thần tình diệc khả quan dã. (Tổng trấn họ Lý ở Giao Châu mua được hai tên nô da đen, đen bóng như sơn, da chân chai cộm lên, cắm ngược đao đưa mũi nhọn lên cho họ đạp lên đi lại cũng không hề hấn gì. Tổng trấn cưới kỹ nữ cho làm vợ, sinh được con trai da lại trắng, bọn đầy tớ trong nhà đùa giỡn, nói là không phải con y. Tên nô da đen nghi ngờ, giết chết đứa con thì xương đều đen, mới hối hận. Tổng trấn thường sai hai người đối diện với nhau múa hát, thần thái điệu bộ cũng rất dễ nhìn).

1. Các truyện trong bản dịch Liêu Trai chí dị của Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân in năm 1916-1918: Cuốn thứ nhứt (Aout 1916): Chuyện nàng Liên Tỏa (Liên Tỏa), Chuyện nàng Thanh Phụng (Thanh Phượng), Chuyện nàng Ngũ Thu Nguyệt (Ngũ Thu Nguyệt), Chuyện Diệp Sanh (Diệp sinh), Chuyện ăn mày tiên (Cái tiên), Bói tiền (Bốc tiền), Chuyện mồ Tào Tháo (Tào Tháo trủng), Chuyện Tần Cối (Tần Cối), Chuyện nàng Lăng Giác (Lăng giác), Thay hồn đổi xác (Trường Thanh tăng), Chuyện Trương Hồng Tiệm (Trương Hồng Tiệm). Cuốn thứ nhì (Septembre 1916): Chuyện Trương Hồng Tiệm (tiếp theo), Chuyện nàng Hồng Ngọc (Hồng Ngọc), Chuyện nàng Hằng Nương (Hằng Nương), Tề Thiên Đại thánh (Tề Thiên Đại thánh), Chuyện nàng A Bửu (A Bảo), Chuyện ông Lục Phán quan (Lục Phán quan), Chuyện nàng Hiệp nữ (Hiệp nữ). Cuốn thứ ba (Mars 1917): Chuyện nàng Hiệp nữ (tiếp theo), Chuyện Mao Đại Phước (Mao Đại Phúc), Chuyện nàng Anh Ninh (Anh Ninh), Chuyện nàng Tiểu Mai (Tiểu Mai), Chuyện Châu nhi (Châu nhi), Quả báo (Chiết lâu nhân), Gươm bén (Khoái đao), Chuyện nàng Nhiếp Tiểu Thiến (Nhiếp Tiểu Thiến), Chuyện họ Đỗ (Đỗ thị). Cuốn thứ tư (Novembre 1917): Chuyện họ Đỗ (tiếp theo), Chuyện Trần Sanh ở đất Hà Gian (Hà Gian sinh), Con ngươi nói chuyện (Đồng nhãn ngữ) Chuyện nàng Liên Hương (Liên Hương), Chuyện hai anh em Trương Thành (Trương Thành), Chuyện nàng Trần Vân Thê (Trần Vân Thê), Chuyện người Nhạc Trọng (Nhạc Trọng), Chuyện chàng Đại Nam (Đại Nam), Chuyện người Tăng Hữu Vu (Tăng Hữu Vu).  Cuốn thứ năm (Juillet 1918): Chuyện ngươi Tăng Hữu Vu (tiếp theo), Chuyện quan Ngự sử huyện Phong Đô (Phong Đô Ngự sử), Chuyện đám cưới chồn (Hồ giá nữ), Chuyện chàng rể bị ma giấu (Tân lang), Chuyện mưa tiền (Vũ tiền), Chuyện nàng Tiểu Tạ (Tiểu Tạ), Chuyện cỏ Thủy mãng (Thủy mãng thảo), Chuyện nàng Thường Nga (Thường Nga), Chuyện Bành Hải Thu (Bành Hải Thu), Chuyện nàng Trước Thanh (Trúc Thanh).

2. Một số bản dịch Liêu Trai chí dị trên Nông cổ mín đàm: Lương Dũ Thúc, Thương người khác thể thương thân, Ghét người khác thể vun phân cho người, Nông cổ mín đàm, số 5, 6, 7 tháng 8.9.1901, chính là bản dịch truyện Thụy Vân (quyển IV) Lương Dũ Thúc, Tác thiện thiên giáng chi bá tường, số 19 và 20, ngày 5 và 19.12.1901, chính là bẫn dịch truyện Thuy mãng thảo, quyển II.

Lương Hòa Quí, Lộng nguyệt thành tiên, số 25, ngày 23.1.1902, chỉnh là bản dịch trưyện Hồ Tử thư, quyển II.

Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện Hồng Ngoc, số 51 và 53, ngày 14 và 28.8.1902, chính là bản dịch truyện Hồng Ngọc, quyển III.

Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện thần hoa, số 128, ngày 11.1.1904, chính là bản dịch truyện Hoa thần, Phụ lục V, quyển XVI.

Lương Dũ Thúc, Chuột hãy còn có nghĩa, người há chẳng làm nhơn, số 8, ngày 19.9.1901, chính là bản dịch truyện Nghĩa thử, quyển XlII. Lương Dũ Thúc, Nghĩa khuyển, số 9, ngày 26.9.1901, chính là bản dịch truyện Nghĩa khuyển, quyển XIV.

Khuyến Thiện đạo nhân, Hoành tài bất phú, số 49, 50 ngày 31.7 và 7.8.1902 chính là bản dịch truyện Nhiêm Tú, quyển II.

Nguyễn Đoan Khai, Phi ngưu, số 142, ngày 26.5.1904 chính là bản dịch truyện Ngưu phi, quyển XIV.

Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện Tần Cối, số 158, ngày 22.9.1904, chính là bản dịch truyện Tần Cối, quyển XVI.

Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện mồ Tào Tháo, số 159, ngày 29.9.1904, chính là bản dịch truyện Tào Tháo trung, quyển XVI.

Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện Uông Khả Thọ, số 162, ngày 20.10.1904, chính là bản dịch truyện Uông Khả Thụ, quyển XIII.

Nguyễn Chánh Sắc, Chuyên Ngũ Thu Nguyệt, số 163 và 164, ngày 27. 10 và 3. 11. 1904, chính là bản dịch truyện Ngũ Thu Nguyệt, quyển VIII.

Nguyễn Chánh Sắc, Thay hồn đổi xác, số 181, ngày 9. 4. 1905, chính là bản dịch truyện Trường Thanh tăng, quyển I.

Bản dịch được Huỳnh Tịnh Của giới thiệu trong Chuyện giải buồn, Sài Gòn, 1885 với nhan đề Chuyện Quân Mò Hóng:

Ông Tổng trấn đất Giao Châu mua về hai thằng mọi đen thui như lọ nồi, náng chân nó dày như mo, ngửa lưỡi gươm cho nó đi qua đi lại cũng không động phạm chi cả. Bắt đĩ gả cho nó đĩ sanh con lại ra trắng, bạn tác nó cười nói không phải con nó, nó hồ nghi bắt con mà giết, té ra xương con cũng đen như xương gà ác, mới biết mình lầm. Thường dạy hai đứa múa đánh võ, bộ tịch nó nhảy nhún cũng dễ coi. Thật ra "Giao Châu” (huyện thuộc tỉnh Sơn Đông) ở đây không phải là Giao Châu với ý nghĩa là một phần đất dai ở miền Bắc Việt Nam dưới thời Bắc thuộc, song sự trùng hợp về địa danh như vậy đã khiến nhiều người không ngờ rằng đây là chuyện Trung Quốc chứ không phải truyện Việt Nam. Đáng lưu ý là từ cuối thế kỷ XIX, với ý thức bảo vệ văn hóa dân tộc trong hoàn cảnh Hán học với tư cách là nền cổ học Việt Nam ở Nam Kỳ bị chính quyền xâm lược coi là một đối tượng phải bài trừ, một phong trào dịch thuật văn chương chữ Hán ra tiếng Việt - chữ Nôm đã được dấy lên ở Lục tỉnh(1). Việc phiên dịch Liêu Trai chí dị của một số người như Lương Dũ Thúc, Lương Hòa Quý, Nguyễn Chánh Sắc là sự nối tiếp phong trào nói trên trong hoàn cảnh mới, với đặc trưng là việc tuân thủ thi pháp văn học truyền thống như chuyển ngữ sát nguyên văn, thậm chí có khi chuyển thể ra thơ lục bát, một thể thơ dân gian truyền thống Việt Nam (khuynh hướng dịch thuật này về sau dường như cũng ít nhiều lặp lại trong bản dịch Liêu Trai của Tản Đà năm 1942). Song bên cạnh đó, việc tiếp xúc toàn diện với phương Tây tư bản cũng đưa tới cho văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhữug nguồn lực phát triển mới, tình hình này thể hiện trên phương diện dịch thuật chủ yếu qua lối dịch “phóng tác” mà ngoài Huỳnh Tịnh Của với Chuyện Quân Mò Hóng nói trên còn có thể kể thêm Nguyễn Đoan Khai với bài Phi ngưu tức bản dịch truyện Ngưu phi (Trâu bay) trong Liêu Trai chí dị đăng trên mục Chuyện khôi hài, báo Nông cổ mín đàm số 142, ngày 26.5.1904... Cần nói thêm rằng lối dịch phóng tác ấy về sau sẽ đưa tới cho văn học chịu ảnh hưởng phương Tây ở vùng này một Hồ Biểu Chánh với nhũng Cay đắng mùi đời, Ngọn cỏ gió đùa phóng tác Sans fámille của Hector Malot, Les Misérables của victor Hugo....(2) Hai khuynh hướng bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc và đồng hóa các giá trị văn hóa phương Tây nói trên như vậy đã bổ sung cho nhau trong việc trình hiện bước tiến của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX trên phương diện dịch thuật văn học, và trong ý nghĩa này, các bản dịch Liêu Trai chí dị đã từng bước trở thành một bộ phận không chỉ của sinh hoạt văn học mà còn cả của sinh hoạt xã hội Việt Nam. Không lạ gì mà tuy có phần muộn hơn văn giới Lục tỉnh, nhưng chẳng phải đến những năm 40 của thế kỷ XX và với những Tản Đà, Nhượng Tống... thì các dịch giả miền Bắc mới dịch Liêu Trai chí dị: mấy chữ triện “Đỗ Văn thư quán” và "Sửa lại và giữ quyền lợi: Phù Văn Librairie" trên trang bìa bản dịch Tân Liêu Trai của Vũ Hi Tô năm 1921-1922 cho thấy bản in này của Nhà sách Phù Văn là bản in lại có sửa chữa bản in của Đỗ Văn thư quán trước đó, nghĩa là trước 1921 người đọc Việt Nam đã có bản dịch một số truyện trong Liêu Trai chí dị theo phương ngữ Bắc in bằng chữ quốc ngữ latinh.

1 Xem thêm Cao Tự Thanh, Văn học Hán Nôm ở Gia Định, bài trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II - Văn học, Nxb Thành phố Hổ Chí Minh, 1988, tr. 114-115.

2. Xem thêm Cao Tự Thanh, Vài bản dịch Liêu Trai chí dị đầu thế kỷ XX ở Lục tỉnh, Tạp chí Hán Nôm, số 4, 1996.

Tuy nhiên hoàn cảnh thuộc địa trước 1945 rồi tình trạng chiến tranh và chia cắt đất nước từ 1945 đến 1975 ở Việt Nam đã hạn chế thành tựu phiên dịch Liêu Trai chí dị, mà điểm dễ thấy là việc tuyển dịch vẫn kéo dài đến 1990. Từ các bản dịch vào loại sớm nhất trong Chuyện giải buồn năm 1885 đến nay, những truyện đã được dịch cũng chỉ khoảng trên dưới con số 150, trong đó có khá nhiều là được dịch đi dịch lại. Dĩ nhiên, điều đó cho thấy những truyện ấy là hay, là có giá trị, song như thế không có nghĩa là nhữug truyện khác không hay, không có giá trị. Bên cạnh đó, tạm thời chưa nói tới vấn đề văn bản, thì Liêu Trai chí dị với cái “bản lai chân diện mục" của nó mới được coi là một bộ truyện "chí dị" (ghi chép chuyện lạ) của Bồ Tùng Linh. Chính tính hệ thống của bộ truyện mới làm nên giá trị của tác phẩm vẫn được coi là một trong những ánh phản nghệ thuật độc đáo của cuộc sống xã hội và văn hóa Trung Quốc thời Thanh này. Xuất phát từ quan niệm trên, có thể nghĩ rằng người đọc Việt Nam hiện đang cần có bản dịch trọn bộ Liêu Trai chí dị. Nhưng một bản dịch trọn bộ lại có những khó khăn riêng.

Trước hết, phải nhắc lại vấn đề văn bản. Ngoài chi tiết 431 hay 432 truyện đã nói trên kia, dường như chưa dịch giả Việt Nam nào phiên dịch Liêu Trai chí dị thập di, càng chưa có nhà nghiên cứu nào đặt vấn đề tìm hiểu tác phẩm về mặt văn bản học. Tình hình này thể hiện khá tập trung qua bản dịch Liêu Trai chí dị (tập 1, Nxb. Văn học, 1989), một bản dịch bộc lộ nhiều điểm yếu trí mạng của giới nghiên cứu và dịch thuật Việt Nam trong việc tìm hiểu văn bản Liêu Trai chí dị lúc bấy giờ. Chẳng hạn mặc dù Lời giới thiệu có nêu ra nguyên tắc "bám sát bản Hội hiệu hội chú hội bình" của Trương Hữu Hạc (Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 1962), truyện Mai nữ hòa Phong Vân Đình trong bản dịch này vẫn dịch là “Cô gái họ Mai", nghĩa là chỉ dịch hai chữ Mai nữ như trong các văn bản truyền thống (?). Hay bản dịch nói trên đã lược bỏ nhiều đoạn "Dị Sử thị nói” trong nguyên bản, trong khi như đã trình bày trên kia, những đoạn "Dị Sử thị" nói ấy chính thể hiện mục đích sáng tác của Bồ Tùng Linh và vì thế cũng bộc lộ ý nghĩa đích thực của tác phẩm. Cần nói thêm rằng lối dịch tùy tiện bớt xén nguyên văn này đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong hoạt động dịch thuật hiện nay, một cung cách góp phần làm cho việc tiếp xúc văn học với thế giới của chúng ta tuy rầm rộ trên bề mặt nhưng chưa đạt được bề sâu văn hóa cần thiết và do đó cũng hàm chứa một nguy cơ tiềm ẩn cho cả hoạt động dịch thuật lẫn sinh hoạt học thuật ở Việt Nam. Cho nên trong bản dịch này chúng tôi giới thiệu toàn văn các truyện trong Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí di thập di, với mong mỏi được góp phần cung cấp cho người đọc một ý niệm về cái "bản lai chân diện mục" của tác phẩm. Phần Liêu Trai chí dị trong bản dịch này chủ yếu theo bản Hương Cảng, có đối chiếu với bản Đài Bắc để điều chỉnh một số chi tiết cho hợp lý. Phần Thập di thì văn bản chúng tôi sử dụng bị thiếu một truyện trong truyện Quy trấp tứ tắc (Hai mươi bốn truyện ma), nhưng trong điều kiện tư liệu hiện tại chúng tôi chưa thể bổ sung, đây là một thiếu sót mà chúng tôi muốn cáo lỗi trước với người đọc.

Thứ hai, và quan trọng nhất, là việc phiên dịch Liêu Trai chí dị thật rất không dễ dàng. Lời Tựa bản dịch Liêu Trai chí dị của nhóm Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân năm 1916-1918 từng viết “Vả lại người mà đặt bộ truyện này đây là có ý nhàm chán việc đời, nên không muốn nói việc người, cứ nói những chuyện hồ chuyện quỷ, mới nghe qua dường như vô lý, chừng xét lại gẫm cũng hữu tình, tuy là lời nói minh minh, mà kỳ trung cũng có ý thâm minh huyền diệu, rất tiếc vì văn chương từ điệu, dịch ra nôm khó nỗi cho trọn hay"(1). Mãi đến khi tiếng Việt văn học hiện đại đã thuần thục hơn rất nhiều, ngày 15. 5. 1958 tạp chí Bách hhoa số 33 ở Sài Gòn cũng vẫn phải than thở về nhũng khó khăn trong việc phiên dịch Liêu Trai chí dị:

" ...Nhắc đến cổ giai phẩm Trung Hoa, dù có thiên về mấy bộ Tam quốc, Tây sương, mà xưa nay ai đã đành quên Tình sử? Mà đã nhớ Tình sử thì ai nỡ nào quên được Liêu Trai? Cho nên khi bạn Hư Chu, quá bận rộn vì đang mùa thi cử, phải tạm biệt Bách khoa, thì chúng tôi bèn nhờ một bạn khác đã từng để hai mươi năm học hỏi Hán, Pháp, Anh văn và Thế giới ngữ, vừa làm quen với các bạn qua bản dịch Cuộc thách đố: bạn Kiều Yêu.

Bạn Kiều Yêu đã nhận lời, và đã... khổ sở.

Bởi lẽ trong các tiểu thuyết danh tiếng của Trung Hoa, có lẽ Liêu Trai là khó hiểu hơn hết, lại bởi thêm ngoài cái giá trị văn chương, còn thêm cái giá trị cách mạng; và bởi lẽ bạn Kiều Yêu đã thất vọng với một Tản Đà già dặn, với một Quán Chi khiêm tốn, với một Nhượng Tống tài hoa, lúc ba bậc đàn anh này dịch Liêu Trai chí dị. Văn của Bồ Tùng Linh gãy gọn quá, mà đặc tính này đã xui nên bao sự hiểu lầm cho người đọc ngoại quốc, trong đó có ba nhà văn mà chúng tôi vừa kể.

Cho nên mấy truyện dịch đầu của bạn Kiều Yêu đành phải hơi nhiều lời, quá tân thời, quá rành rọt...”2

1. Liêu Trai chí dị, Traduit en Quốc ngữ par Nguyễn Chánh Sắc (Tân

Châu), Rédateur au “Lục tỉnh tân văn”, publié par Phạm Xuân Lẫm,

cuốn thứ nhứt, Tour droit réservés, Sài Gòn. Imprimerie J. Viết, Aout

1916.

2. Một số bản dịeh Liêu Trai chí dị của Kiều Yêu trên Bách khoa thời

gian 1958-1960: Bạch Thu Luyện (Bạch Thu Luyện) số 33, 15.5.1958.

Cát Cân (Cát Cân) số 34, 01.6.1958

Thụy Vân (Thụy Vân) số 35, 15.6.1958

Cô gái đánh sợi (Tích nữ) số 36, 01.7.1958

Vãn Hà (Vãn Hà) số 37, 15.7.1958

Phấn Điệp (Phấn Điệp) số 38, 01.8.1958

Cô bảy họ Tiêu (Tiêu Thất) số 39, 15. 8. 1958

Vương Quế Am (Vương Quế Am) số 40, 01.9.1958

Cái tiên (Cái tiên) số 41, 15.9.1958

Sen lồng bóng nguyệt (Hàn nguyệt phù cừ) số 42, 01.10.1958

Cẩm Sắt (Cẩm Sắt) số 43, 15.lO.1958

Người làm trò rắn (Xà nhân) số 44, 01.11.1958

Ký Sanh con trai Vương Quế Am (Vương Quế Am - Ký Sinh phụ) số 45, 15.11.1958

Xảo kế (Cục trá III) số 46, 01.12.1958

Ái Nô (Ái Nô) số 47, 15.12.1958

Phòng Văn Thục (Phòng Văn Thục) số 49, 15.01.1959

Trương Hồng Tiệm (Trương Hồng Tiệm) số 50, 01.02.1959

Lã Vô Bệnh (Lữ Vô Bệnh) số 52, 0l.03.1959

Hai anh em họ Thương (Nhị Thương) số 54, 01.04.1959

Thần ếch (Thanh oa thần) số 67, 15.10.1959

Hằng Nương (Hằng Nương) số 69, 15.11.1959

Lục áp Quan (Lục áp Quan) số 71, 15.12.1959

Tương Quần (Tương Quần) số 74, 01.02.1960

Cô Tiêm (A Tiêm) số 77, 15.3.1960

Ngựa trong tranh (Hoa mã) số 81, 15.5.1960

Phải thừa nhận rằng ở Việt Nam hơn một thế kỷ qua có tình trạng chung là trình độ sử dụng tiếng Việt tăng lên thì trình độ hiểu biết chữ Hán giảm xuống, tuy nhiên vấn đề ở đây không chỉ gói gọn trong phạm vi ngôn ngữ. Chúng tôi không dám quá phận mà phê phán nhũng người đi trước, nhưng quả thật lối dịch bỏ qua các yếu tố hình thức - nghệ thuật của nguyên tác trong các bản dịch Liêu Trai chí dị xuất bản khoảng hai mươi năm gần đây cho thấy chúng ta vẫn chưa xác lập được những chuẩn mực đúng đắn cần thiết trong việc dịch thuật văn học nói chung và dịch thuật văn học chữ Hán trong đó có Liêu Trai chí dị nói riêng. Là một tập hợp các tác phẩm tiểu thuyết - truyện ngắn tự sự, Liêu Trai chí dị nói chung ít dùng điển cố song cũng chứa đựng nhiều yếu tố thi pháp văn học Trung Hoa cổ điển như lối dùng chữ súc tích, đặt câu ngắn gọn, hành văn đăng đối, kết cấu chặt chẽ. Trong một số trường hợp, tác giả còn đưa vào tác phẩm nhũng bài văn biền ngẫu khá dài, chẳng hạn bài sớ của nhân vật Long đồ học sĩ họ Bao trong truyện Tục hoàng lương (quyển V), đoạn “Dị Sử thị nói” cuối truyện Đổ phù (quyển VI), bài "Tục Diệu âm kinh” chép phụ cuối truyện Mã Giới Phủ (quyển X), lời án từ của nhân vật Ngô Nam Đại trong truyện Yên Chi (quyển XIV), hay bài hịch đánh Phong thị (thần gió) trong truyện Hoa thần (quyển XVI)... Xuất phát từ quan niệm những chi tiết hình thức - yếu tố nghệ thuật ấy là một bộ phận hửu cơ góp phần thể hỉện nội dung và làm nên giá trị của tác phẩm, chúng tôi đã cố gảng truyền đạt chúng trong bản dịch Liêu Trai chí dị này. Các chú thích từ ngữ, điển cố cần thiết trong bản dịch được trình bày thật ngắn gọn và chủ yếu chỉ chú thích trong lần xuất hiện đầu tiên. Mặc dù khởi sự phiên dịch Liêu Trai chí dị từ mười năm nay và đã học được nhiều điều từ bản dịch của những người đi trước, cho đến nay chúng tôi vẫn chưa hài lòng về bản dịch này trên nhiều phương diện. Song được sự tán trợ và khuyến khích của Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, chúng tôi cũng mạnh dạn đưa in bản dịch này, với mong mỏi nó có thể ít nhiều góp phần khắc phục những thiếu sót và bất cập của chúng ta trong việc đọc và dịch Liêu Trai chí dị. Tuy nhiên tới lượt nó sự khắc phục ấy cũng có những thiếu sót và bất cập, nên chúng tôi hy vọng nhận được sự chỉ giáo của người đọc gần xa.



Tháng 2.2005



Người dịch

Quyển I -- 1 --: Thi Thành Hoàng
(Khảo Thành Hoàng)

Ông nội người anh rể của ta họ Tống húy Đạo, là Lẫm sinh* trong huyện. Một hôm ông bệnh nằm trong nhà, thấy có viên lại cầm công văn dắt một con ngựa bờm trắng tới nói “Mời ông đi thi". Ông nói “Quan chấm thi chưa tới, làm sao mà thi?”. Viên lại không đáp, chỉ giục đi mau. Ông ra sức cưỡi ngựa chạy nhanh theo, đường đi rất lạ, tới một nơi thành quách như kinh đô của bậc vương giả.
*Lẫm sinh: học trò trường phủ học ở Trung Quốc thời Thanh, được hưởng học bổng và miễn một số nghĩa vụ thuế má dao dịch.
Lát sau vào một Công thự, cung thất tráng lệ, ở trên có mười người ngồi, đều không biết là ai, chỉ nhận ra là có Quan Đế*. Dưới thềm bày hai cái bàn hai cái ghế, đã có một vị Tú tài ngồi trước, ông cũng tới ngồi cạnh. Bàn nào cũng có sẵn giấy bút, ngay sau đó đề thi đưa xuống, nhìn vào thấy có tám chữ “Nhất nhân nhị nhân, hữu tâm vô tâm" (Một người với hai người, hữu ý hay vô ý). Hai người làm bài xong trình lên, bài của ông có câu “Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng, vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt" (Có ý làm điều thiện, dù thiện cũng không thưởng, vô ý làm điều ác, dù ác cũng không phạt).
* Quan Đế. tức Quan Vũ, còn gọi là Quan Công, tự Vân Trường, em kết nghĩa và là tướng của Lưu Bị, Tiên chủ nhà Thục Hán thời Tam quốc, nổi tiếng nghĩa khí, được nhân dân Trung Quốc thờ là thần, thời Tống phong tặng là Quan Thánh Đế quân.
Các thần chuyền tay nhau xem, khen ngợi không thôi, gọi ông lên dụ rằng “ở Hà Nam khuyết một chỗ Thành hoàng, ông xứng đáng giữ chức ấy". Ông mới hiểu ra, lạy phục xuống khóc nói “Được ban mệnh lệnh, đâu dám chối từ! Nhưng còn có mẹ già bảy mươi tuổi không người phụng dưỡng, xin chờ khi đã trọn tuổi trời sẽ vâng mệnh giữ chức". Ở trên có một vị dáng mạo như bậc đế vương lập tức ra lệnh “Tra sổ xem mẹ ông ta thọ được bao nhiêu”. Có một viên lại râu dài giở sổ ra xem lại một lượt bẩm rằng "Còn thọ chín năm nữa". Mọi người đang ngần ngừ, Quan Đế nói “Không sao, cứ sai Trương sinh thay, đủ hạn chín năm sẽ giao cho ông ta giữ chức cũng được”, rồi nói với ông rằng "Lẽ ra phải đi nhận chức ngay, nhưng nay nghĩ tới lòng hiếu thảo nên cho hoãn chín năm, đến hạn sẽ lại triệu”.
Lại khuyến dụ vị Tú tài kia mấy câu, hai người cùng lạy lui ra. Vị Tú tài nắm tay ông đưa ra tới ngoài thành, tự nói là họ Trương ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông), có thơ đưa tiễn nhưng ông quên cả, chỉ nhớ được hai câu “Hữu hoa hữu tửu xuân thường tại, Vô nguyệt vô đăng dạ tự minh” (Có hoa có rượu xuân thường cạnh, Không nến không trăng tối tự soi).
Ông đã lên ngựa, bèn chia tay rồi đi, về tới làng mới giật mình tỉnh dậy. Lúc ấy ông đã chết ba ngày rồi, mẹ ông nghe trong quan tài có tiếng rên rỉ bèn tới đỡ ra, nửa ngày sau mới nói được. Hỏi thăm thì hôm ấy ở Trường Sơn quả có Trương sinh chết.
Chín năm sau quả nhiên mẹ ông mất, ông lo liệu tang ma xong, tắm gội vào phòng nằm rồi tắt hơi. Cha vợ ông ở cửa tây trong thành, chợt thấy ông tới, nghi vệ lộng lẫy, tùy tùng rất đông, vào nhà lên thềm lạy một lạy rồi đi. Người nhà thảy đều ngờ sợ, không biết ông đã làm thần, vội tới làng để hỏi mới hay ông đã chết rồi. Ông có tự viết lại tiểu truyện của mình, tiếc là sau loạn đã mất, trên đây chỉ là tóm tắt lại mà thôi.


-- 2 --: Người Trong Con Ngươi Trò Chuyện
(Đồng Nhân Ngữ)

Người học trò ở Trường An là Phương Đống, cũng có tài danh nhưng tính khinh bạc không giữ lễ nghi, cứ ra đồng gặp con gái đi chơi là lập tức theo tán tỉnh.
Một hôm trước tiết Thanh minh đi chơi ngoài thành thấy một chiếc xe nhỏ mui gấm rèm thêu, có vài người tỳ nữ cưỡi ngựa thong thả theo sau, trong đó có một nàng cưỡi con ngựa tốt, dung mạo rất đẹp. Bèn tới gần nhìn, thấy rèm xe đang vén lên, bên trong có một nữ lang trạc mười sáu tuổi, trang sức lộng lẫy, bình sinh chưa thấy ai đẹp như vậy nên mắt hoa đầu váng cứ đuổi theo nhìn, khi thì chạy lên trước, lúc thì tụt lại sau, theo suốt mấy dặm.
Chợt nữ lang gọi người tỳ nữ tới cạnh xe nói “Buông rèm xuống cho ta! Gã tiểu tử ngông cuồng kia ở đâu dám lại đây nhìn ngó?” Người tỳ nữ buông rèm xe xong ngoái nhìn sinh giận dữ nói “Đây là vợ mới cưới của Thất lang ở thành Phù Dung về nhà thăm cha mẹ, không phải như các cô gái nhà quê, phải dạy cho học trò hỗn láo nhà ngươi mới được". Dứt lời cầm một cục đất dính ở bánh xe ném vào mặt sinh, sinh tối cả mắt lại. Đến khi gỡ được bùn đất ra nhìn thì đoàn xe ngựa đã đi xa, sợ hãi trở về.
Thấy con mắt xốn xang rất khó chịu, nhờ người khác vạch mi mắt ra xem thì trong con ngươi có một cái màng, qua một đêm càng cộm thêm, nước mắt chảy giàn giụa không ngừng. Cái màng ấy ngày càng to, qua vài ngày dày như đồng tiền, mắt trái cũng bị sưng như vậy, thuốc thang gì cũng không khỏi, buồn rầu muốn chết, tự lấy làm hối hận.



Nghe nói kinh Phật có thể giải ách bèn tìm một quyển, nhờ người đọc cho để học thuộc lòng mà tụng. Buổi đầu còn thấy lo lắng phiền não, sau dần thấy tinh thần thư thái, ban tối rảnh rỗi thì ngồi xếp bằng lần tràng hạt mà niệm, được một năm thì thấy hoàn toàn yên ổn.



Chợt nghe trong con mắt bên trái có một giọng nói nhỏ như tiếng nhặng vo ve rằng "Tối tăm như ban đêm thế này, ai mà chịu nổi" Trong con mắt bên phải cũng có một giọng đáp "Hay chúng ta cùng ra ngoài chơi một lúc đi, cho đỡ buồn bực". Kế sinh dần dần thấy trong mũi có cái gì cọ quậy rất ngứa ngáy, như có con vật bò ra, một lúc lâu thì trở lại, lại theo lỗ mũi mà vào. Vào tới trong lại nói “Lâu quá không ra vườn chơi, giò lan Trân châu đã chết khô rồi".
Sinh vốn rất thích lan, trong vườn trồng rất nhiều, hàng ngày vẫn ra tưới bón, nhưng từ khi bị lòa thì lâu không hỏi tới. Lúc bấy giờ chợt nghe thấy thế, bèn căn vặn vợ "Sao lại để lan chết khô như vậy?". Vợ hỏi sao biết, sinh kể lạ nguyên do, vợ ra vườn nhìn xem thì giò lan quả đã khô quắt rất lấy làm lạ lùng. Bèn lặng lẽ núp lại trong phòng, thấy có hai người bé tí nhỏ hơn hạt đậu từ trong lỗ mũi sinh bò ra thoắt cái đã ra khỏi cửa, nhìn theo thì đã mất dạng. Loáng sau lại sóng đôi bay về, đáp xuống mặt sinh, lại như con ong về tổ chui trở vào, cứ như thế suốt hai ba hôm.
Chợt sinh nghe người bên mắt trái nói "Đường hầm quanh co khuất khúc, ra vào qua lại bất tiện quá, chẳng bằng mở lấy một cái cửa". Người bên mắt phải nói "Vách bên ta rất dày, không dễ đâu”. Người bên mắt trái nói "Để ta phá thử xem, nếu được sẽ cùng ngươi dùng chung”. Kế thấy trong con mắt trái như có cái gì xé toạc ra, giây lát mở mắt ra nhìn, thì lại thấy mọi vật như thường.



Sinh mừng rỡ nói với vợ, vợ tới xem thì thấy cái màng trong mắt trái đã vỡ ra một lỗ, tròng đen di động như hạt tiêu. Qua một đêm thì lớp màng mất sạch, nhìn kỹ vào thì thấy mắt có hai con ngươi nhưng mắt phải vẫn bị sưng phồng lên như cũ, mới biết hai người trong mắt đã sang ở chung một chỗ. Sinh tuy chỉ có một mắt, nhung sáng chẳng kém người còn đủ hai mắt, nhìn gì cũng thấy. Từ đó ngày càng tự kiểm thúc, người làng khen là có nết tốt.
Dị Sử thị nói: Làng ta có người học trò cùng hai người bạn đi trên đường, thấy xa xa có một thiếu phụ bèn thúc lừa chạy vượt lên ngâm đùa rằng “Có người đẹp chừ”* rồi nhìn hai người bạn nói “Đuổi theo mau” định trêu ghẹo đùa bỡn. Giây lát đuổi kịp thì là vợ con trai, mất cả khí thế, ngậm tăm không nói gì. Hai người bạn lại làm ra vẻ không biết, cứ bô bô bình luận này nọ. Người học trò sượng ngắt, ấp a ấp úng nói "Đây là con dâu lớn của ta", họ mới nhịn cười mà thôi đi. Kẻ tính hạnh khinh bạc thành ra tự làm nhục mình, thật đáng cười vậy. Đến như mù mắt hết thấy đường, thì đó là quỷ thần báo oán đấy. Thành chủ thành Phù Dung không rõ là thần nào, hay là Bồ Tát hiện thân chăng? Nhưng lang quân bé tí phá vách mở cửa, thì quỉ thần tuy ghét kẻ xấu nết cũng đâu không cho người ta tự sửa mình. 

* “Có người đep chừ”: nguyên văn là “Hữu mỹ nhân hề”, chữ trong bài phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như hát khi khêu gợi Trác Văn Quân “Hữu mỹ nhân hề, kiến chi bất vương (vong), Nhất nhật bất kiến hề, tư chi như cuồng...” (Có người đẹp chừ, gặp rồi không quên, Một ngày không gặp chừ, nhớ như điên cuồng), ở đây người học trò đọc để trêu gái.

-- 3 --: Bức Tường Vẽ Tranh
(Họa Bích)

Mạnh Long Đàm người Giang Tây cùng Hiếu liêm họ Chu lên trọ ở kinh đô, tình cờ tới chơi chùa nọ. Thấy điện Phật, hành lang, thiền phòng đều không có gì to lớn rộng rãi, chỉ có một nhà sư già trú ngụ.
Sư thấy có khách tới, xốc áo ra đón, dẫn đi xem khắp nơi. Trong điện có tượng thần sư Chí Công, hai vách vẽ tranh rất tinh xảo, nhân vật đều như thật, tường bên đông vẽ bức tranh Thiên nữ rắc hoa, trong có một người tóc xõa cầm hoa mỉm cười, môi son như động, sóng mắt như đưa.
Chu chăm chú nhìn một lúc lâu, bất giác thần trí tiêu tan, chợt thấy thân thể phơi phới như đằng vân giá vụ, đã lên tới trên vách. Thấy điện gác chập chồng không phải như ở cõi trần, có một vị sư già đang ngồi trên tòa giảng kinh, những người khoác áo hở vai đứng nghe rất đông,
Chu cũng trà trộn vào đứng trong đó. Giây lát thấy như có người ngầm kéo áo mình, quay nhìn thì thấy thiên nữ xõa tóc cười tủm tỉm quay đi bèn lập tức đi theo qua hành lang quanh co thì tới một gian phòng nhỏ, ngần ngừ không dám bước tới. Cô gái qnay đầu giơ cành hoa trong tay vẫy vẫy ra hiệu gọi, bèn bước theo vào, thấy trong phòng không có một ai. Chu sấn tới ôm, nàng cũng không chống cự gì lắm bèn cùng nhau giao hoan. Xong rồi nàng đóng cửa đi, dặn Chu đừng ho hắng, đến đêm lại trở lạì, như thế hai ngày.
Chị em bạn biết, cùng nhau kéo tới tìm được sinh, đùa nói với cô gái rằng “Tiểu lang trong bụng đã lớn, mà còn để tóc bồng bồng học làm gái chưa chồng à?". Rồi cùng đưa trâm cài tóc và hoa tai bảo búi tóc cao lên, cô gái thẹn thùng không nói năng gì. Một nàng nói “Chị em ơi, đừng ở đây lâu, e người ta không vui”, mọi người cười rộ kéo đi.
Sinh thấy cô gái tóc mây búi cao, trâm phụng rủ thấp, so ra còn đẹp hơn nhiều so với lúc còn xõa tóc. Nhìn quanh không có ai bèn cùng nhau lên giường, mùi lan xạ thơm ngát ngây ngất lòng người. Còn đang vui vầy chợt nghe tiếng ủng da cồm cộp, khóa sắt loảng xoảng, lại có tiếng tranh cãi huyên náo.
Cô gái hoảng sợ vùng dậy cùng Chu ra nhìn trộm thì thấy một sứ giả giáp vàng mặt đen như sơn, tay khóa tay chùy, các thiên nữ đứng chung quanh. Sứ giả hỏi “Đã đủ cả chưa?”, họ trả lời đã đủ cả. Sứ giả nói “Nếu có giấu diếm người dưới trần thì phải khai ngay ra, đừng để phải chịu tội”, mọi người lại đồng thanh nói không có. Sứ giả quay người ngạc nhiên nhìn quanh như tìm kẻ trốn lánh, cô gái cả sợ mặt xám như tro, hớt hải nói với Chu “Trốn xuống gầm giường mau” rồi mở cánh cửa nhỏ bên vách trốn đi.
Chu nằm im không dám thở mạnh, kế nghe tiếng ủng da bước vào trong phòng rồi trở ra, không bao lâu tiếng ồn ào xa dần, trong lòng hơi yên nhưng ngoài cửa vẫn có người qua lại bàn bạc. Chu thấp thỏm hồi lâu, thấy ù tai hoa mắt không sao chịu nổi nữa, chỉ im lặng nghe ngóng chờ cô gái quay lại, cũng không nhớ được rằng mình vốn từ đâu tới đây.
Lúc ấy Mạnh Long Đàm ở trong điện, chớp mắt không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi sư, sư cười nói “Đi nghe giảng kinh rồi". Hỏi ở đâu, sư đáp không xa, kế lấy ngón tay búng lên tường gọi "Chu đàn việt, sao đi chơi lâu không về thế?” liền thấy trong búc tranh trên vách có hình Chu đang nghiêng tai nhón chân như nghe ngóng.
Sư lại gọi nói “Ông bạn đi cùng đợi lâu rồi!", Chu bèn lãng đãng trên vách bước xuống, lòng lạnh người ngây, mắt hoa chân nhũn. Mạnh cả sợ, từ từ hỏi han thì là Chu đang nằm duới gầm giường nghe tiếng gõ cửa như sấm bèn ra khỏi phòng nghe trộm. Cùng nhìn tới cô gái cầm hoa thì thấy tóc đã búi cao chứ không buông xuống như truóc. Chu hốt hoảng vái lạy sư già hỏi duyên cớ, sư cười nói “Ảo giác từ lòng người sinh ra, lão tăng làm sao giải thích được?”. Chu lo lắng không nói ra, Mạnh sợ sệt không kìm được, lập tức đứng lên lần theo bậc thềm ra về.

Dị Sử thị nói: Ảo giác từ lòng người sinh ra, lời ấy giống như của kẻ có đạo. Người có lòng dâm tà sẽ sinh ra cảnh bậy bạ, người có lòng bậy bạ sẽ sinh ra cảnh đáng sợ. Bồ Tát điểm hóa kẻ mê muội, làm ra ngàn muôn ảo giác, đều do lòng người động mà nhìn thấy thôi. Sư già thiết tha điểm hóa, tiếc là không thấy hai người kia nghe xong chợt giác ngộ, xõa tóc vào núi vậy.

-- 4 --: Trồng Lê
(Chủng Lê)

Có người nhà quê bán lê ở chợ, ngon ngọt thơm tho, bán giá rất đắt. Có một đạo sĩ khăn rách áo cũ đứng xin trước xe, người nhà quê đuổi không chịu đi, tức giận chửi mắng. Đạo sĩ nói “Một xe lê hàng vài trăm quả, lão nạp chỉ xin một quả, đối với cư sĩ có mất mát bao nhiêu, sao lại tức giận?".
Người chung quanh khuyên nên lựa một quả nhỏ cho để đạo sĩ đi, nhưng người nhà quê nhất quyết không chịu. Có người làm công trong phố thấy cãi vã bực mình bèn trả tiền mua một quả đưa cho đạo sĩ, đạo sĩ cảm tạ rồi nói vớì mọi người rằng "Người tu hành không được keo bẩn, ta có trái lê ngon, xin đưa ra mời khách”.
Có người nói “Ông dã có được, sao không ăn?”, đạo sĩ đáp "Ta chỉ cần cái hạt làm giống thôi". Rồi bóp vỡ quả lê, lấy hạt ra cầm trong tay, rút cái xẻng nhỏ trên vai đào đất sâu xuống mấy tấc, thả cái hạt lê vào rồi lấp lại, xin người trong chợ cho nước sôi tưới. Có kẻ hiếu sự chạy vào quán cơm cạnh đường xin được nước sôi, đạo sĩ bèn cầm lấy rót lên cái hố. Mọi con mắt đổ dồn vào, đều thấy cái mầm nhú lên, giây lát lớn thành cây lê, cành lá thưa thớt, chợt nảy hoa, chợt thành quả, to lớn thơm tho, kĩu kịt đầy cây.
Đạo sĩ bèn đứng ở trước cây hái chia cho mọi người đứng xem, trong giây lát hết sạch, rồi lấy cái xẻng chặt, cây lê kêu răng rắc hồi lâu đổ xuống, đạo sĩ bèn vác lên lấy cành lá che đầu, ung dung bỏ đi.
Lúc đạo sĩ bắt đầu làm phép, người nhà quê kia cũng đứng lẫn trong đám đông xem, vươn cổ nhướng mắt quên cả xe lê. Khi đạo sĩ bỏ đi mới nhìn lại xe thì lê đã hết sạch, mới biết vừa rồi ông ta phân phát đều là lê của mình. Lại nhìn kỹ thì thấy trong xe mất một cái cuốc, dấu gãy còn mới tinh, trong lòng tức giận. Vội vàng đuổi theo, qua khỏi góc tường thì thấy cái cuốc gãy vứt lại trên mặt đất, mới biết đó là đạo sĩ lấy làm thân cây lê. Đạo sĩ thì chẳng biết ở đâu, cả chợ cứ tủm tỉm cười.

Dị Sử thị nói: Người nhà quê khư khư tiếc của, sự ngây ngốc có thể thấy rõ, đến nỗi bị người trong chợ cười, có lạ gì. Từng thấy trong làng có người vốn nổi tiếng giàu có, mà bạn thân tới xin gạo thì tiếc của, kể lể rằng “Đây là mấy ngày ăn đấy" Có người giúp đỡ được một kẻ hoạn nạn, nuôi được một bữa cơm, thì tức tối kể lể rằng “Ăn bằng năm bằng mười người thường”, thậm chí đối với cả cha con anh em cũng so kè từng ly từng tí. Thế mà tới lúc máu đỏ đen nổi lên thì dốc rương cờ bạc không nuối tiếc, kẻ cướp kề dao vào cổ thì vét tiền chuộc mạng không nề hà. Như hạng người ấy mới là nói không hết, chứ người nhà quê ngu ngốc kia đâu đã đủ để lạ lùng?

-- 5 --: Đạo Sĩ Núi Lao
(Lao Sơn Đạo Sĩ)

Đạo sĩ nói "Sợ sức vóc mảnh dẻ không chịu nổi cực khổ”, thưa rằng "Chịu được". Học trò của đạo sĩ rất đông, chiều tối kéo hết về, Vương đều vái chào làm lễ ra mắt rồi ở lại trong đạo quán. Mờ sáng đạo sĩ gọi Vương đi, đưa búa sai theo mọi người đốn củi, Vương kính cẩn nghe theo. Hơn một tháng tay chân nổi chai, không chịu nổi khổ cực ngầm có ý muốn về.
Một chiều hái củi về, thấy hai người đang cùng thầy uống rượu, trời đã tối vẫn không có đèn đuốc gì, thầy bèn cắt giấy thành hình tấm gương dán lên vách, trong chốc lát như vầng trăng sáng vằng vặc trên vách, chiếu rõ từng sợi tóc, đám học trò xúm quanh lui tới hầu hạ. Một người khách nói "Đêm đẹp vui vẻ không nên riêng hưởng", bèn cầm bầu rượu trên bàn chia cho bọn học trò, lại nói cứ uống thật say. Vương tự nhủ “Có bảy tám người, một bầu rượu làm sao mà đủ?”.
Ai nấy đều đi tìm tô chén tranh nhau rót trước, chỉ sợ hết rượu nhưng rót đi rót lại mà rượu trong bầu vẫn không vơi, thầm lấy làm lạ. Giây lát một vị khách nói "Đã được ơn ban cho trăng sáng, nhưng vắng vẻ quá, sao không gọi Thường Nga tới?". Đạo sĩ bèn lấy đũa ném vào vầng trăng, thì thấy một mỹ nhân từ trong vầng ánh sáng bước ra, lúc đầu cao chưa đầy một thước, tới đất thì cao bằng người thường, lưng thon cổ đẹp, phấp phới múa khúc Nghê thường, múa xong hát rằng:

Tiên tiên ơi, về đi thôi

Chốn Quảng Hàn đây ta lẻ loi


Âm thanh trong trẻo cao vút sánh với tiếng tiêu. Hát xong lại múa vòng rồi nhảy lên bàn, trong chớp mát lại trở thành chiếc đũa. Ba người cười rộ, lại một vị khách nói "Đêm nay vui quá nhưng tửu lượng có hạn, xin tiễn bọn ta ở cung trăng được không?". Ba người dời bàn rượu dần dần vào vầng trăng, mọi người nhìn thấy ba người ngồi trong vầng trăng uống rượu, râu tóc đều rõ mồn một như nhìn vào trong gương.
Lát sau vần trăng tối dần, học trò đốt đuốc tới thì chỉ có đạo sĩ ngồi một mình ở bàn, mà khách đã đi mất rồi. Thức ăn trên bàn hãy còn mà vầng trăng trên vách chỉ còn là một mảnh giấy tròn như tấm gương mà thôi. Đạo sĩ hỏi mọi người "Đã uống đủ chưa?” thưa "Đã đủ rồi". "Đủ rồi thì đi ngủ cho sớm, đừng để lỡ việc kiếm củi sáng mai", mọi người vâng dạ lui ra. Vương thầm thích thú hâm mộ, không muốn về nữa.
Lại đến một hôm thấy khổ cực không thể chịu nổi mà đạo sĩ vẫn không dạy cho một phép thuật nào, không chờ được nữa bèn cáo từ nói "Đệ tử từ mấy trăm dặm tới học đạo, giả như không được dạy phép trường sinh thì cũng mong được dạy chút thuật nhỏ cho thỏa lòng cầu đạo.
Thế nhưng đã hai ba tháng, chẳng qua chỉ sáng đi hái củi chiều trở về, lúc đệ tử ở nhà chưa quen khổ cục thế này bao giờ". Đạo sĩ cười nói “Ta đã nói rằng ngươi không chịu nổi cực khổ, nay quả đúng thế, sáng mai sẽ đưa ngươi về". Vương nói "Đệ tử làm lụng nhiều ngày, xin thầy dạy qua một thuật nhỏ để không phụ công tới đây”. Đạo sĩ hỏi muốn học thuật gì, Vương nói “Thường thấy thầy đi đâu, tường vách đều không ngăn cản được, nếu học được phép ấy cũng là đủ rồi”.
Đạo sĩ cười nhận lời rồi truyền cho khẩu quyết, sai tự niệm lấy xong, hô lớn “Vào đi!” Vương thấy vách không dám bước vào, đạo sĩ lại nói “Thử vào xem!". Vương lại thong thả bước vào vách, nhưng gặp tường lại bị ngăn lại. Đạo sĩ nói "Cúi đầu vào mau, đừng chần chừ", Vương lại tránh ra mấy bước rồi chạy mau vào, tới tường thấy trống không như không có gì, quay lại nhìn thì đã ở phía ngoài rồi. Cả mừng trở vào tạ ơn, đạo sĩ nói “Về tới nhà nên giữ mình trong sạch, không thì phép không nghiệm đâu”, rồi cấp cho lộ phí về nhà.
Vương về tới nhà khoe là đã học qua phép tiên, tường vách cứng rắn cũng không ngăn cản được. Vợ không tin, Vương bèn làm như trước, đứng cách tường mấy thước rồi lao nhanh vào, đầu va phải tường ngã quay ra. Vợ tới đỡ dậy nhìn, thì trên trán nổi cục u to bằng quả trứng. Vợ cười nhạo, Vương thẹn thùng tức tối, chỉ còn cách chửi đạo sĩ già bất lương mà thôi.

Dị Sử thị nói: Nghe chuyện này không ai không cười lớn, nhưng không biết rằng những kẻ như Vương sinh trên đời lại có rất nhiều. Nay có kẻ ngu xuẩn ưa chất ngọt có độc mà sợ thuốc đắng châm đau, lại có kẻ hút mủ liếm trĩ* dâng cái thuật khoe oai sính bạo để đón ý, khinh suất nói đem thuật này có thể hoành hành không ai cản trở nổi. Buổi đầu làm thử thì chưa từng không có chút ít kết quả, bèn cho rằng thiên hạ to lớn cũng có thể theo đó mà làm, nếu không húc đầu vào tường cứng mà ngã quay ra thì không chịu thôi đâu.

* Hút mủ liếm trĩ: nguyên văn là "thỉ ung tuấn trĩ", chữ trong Nam hoa kinh, Liệt Ngự Khấu, chỉ hành động nịnh hót hèn hạ để tiến thân của kẻ vô sỉ. 






PHỤ LỤC: 



Liêu trai chí dị

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bìa quyển Liêu trai chí dị, nguyên bản tiếng Trung
Liêu trai chí dị (chữ Hán: 聊齋志異), với ý nghĩa là những chuyện quái dị chép ở căn nhà tạm, là tập truyện ngắn gồm 431 thiên, ra đời vào đầu đời nhà Thanh (cuối thế kỷ 17) của nhà văn Trung Quốc Bồ Tùng Linh. Bộ truyện này được coi là một kì thư và được đánh giá là đỉnh cao của tiểu thuyết văn ngôn thời cổ đại. Dựa trên cơ sở tập Liêu Trai chí dị - Hội hiệu hội chú hội bình do Trung Hoa thư cục Thượng Hải biên tập và ấn hành năm 1962 gồm 12 quyển, 496 bài và 8 đoạn phụ lục, các dịch giả như Nguyễn Huệ Chi, Cao Xuân Huy, Phạm Tú Châu, Đỗ Ngọc Toại, Nguyễn Đức Lân, Trần Thị Băng Thanh v.v. đã dịch nhiều truyện sang tiếng Việt và lưu truyền rộng rãi tại Việt Nam.

Đề tài

Đề tài chủ yếu của Liêu trai chí dị do tác giả sưu tầm trong dân gian, hoặc rút từ truyện chí quái đời Lục triều, các truyện truyền kỳ đời nhà Đường rồi gia công sáng tạo thêm. Hầu hết các truyện nói về thần tiên ma quái, hồ li lang sói, hổ báo khỉ vượn, voi rắn độc trùng cho tới cây cỏ hoa lá, khói mây gạch đá v.v. nhưng không chỉ vậy, xuyên suốt các tác phẩm là những câu chuyện về người và việc trong cuộc sống hiện thực. Tất cả những đề tài trên được tác giả xử lý khéo léo, ít nhiều ngầm ý chỉ trích nền chính trị tàn bạo của triều đình Mãn Thanh đương thời, phê phán thói hư tật xấu của bọn nho sỹ, thể hiện những tư tưởng dân chủ trong vấn đề hôn nhân và tình yêu.
Có thể chia tập truyện thành 3 cụm đề tài chính:
  1. Đả kích chế độ chính trị tàn bạo, vạch mặt bọn tham quan, cường hào ác bá.
  2. Phơi bày những tệ lậu của chế độ khoa cử, đả kích việc dùng văn bát cổ để chọn nhân tài.
  3. Nguyện vọng đập tan những trói buộc của chế độ hôn nhân phong kiến, giành lấy quyền tự do yêu đương của nam nữ thanh niên.

Một số truyện tiêu biểu

  1. Nhiếp Tiểu Thiện
  2. Họa bì
  3. Bức họa trên tường
  4. Tiểu Thuý
  5. Thư sinh họ Diệp
  6. Đạo sĩ núi Lao
  7. Thụy Vân
  8. Vương Thành
  9. Anh Ninh
  10. Không đề
  11. Hồng Ngọc
  12. Bành Hải Thu
  13. Xảo Nương
  14. Ngũ Thu Nguyệt
  15. Cừu Đại Nương
  16. Tiểu Thu
  17. Thanh Phượng
  18. Phòng Văn Thục
  19. Công Tôn Hạ
  20. Thạch Thanh Hư
  21. Thanh Mai
  22. Cô gái áo xanh
  23. Đảo tiên
  24. Gái thần
  25. Thôi Mãnh
  26. Liên Hương
  27. Trương Hồng Tiệm
  28. Cô gái nghĩa hiệp
  29. Đại Nam
  30. Thư sinh họ Đổng
  31. Vợ thi hộ chồng
  32. Tinh cúc nghề hoa (Hoàng Anh)
  33. Bạch Thu luyện
  34. Cát cân
  35. Mũi dao Kinh Kha (Điền Thất lang)
  36. Người vợ ma (Quỷ thê)

Bản dịch tại Việt Nam

Các truyện trong bộ Liêu trai chí dị đã được dịch và in sớm nhất tại Việt Nam từ năm 1901 trên báo Nông cổ mín đàm[1]. Năm 2005, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn đã xuất bản bộ Liêu trai chí dị đầy đủ do Cao Tự Thanh dịch và chú giải, bao gồm 432 truyện phần chính văn và 68 truyện phần Liêu trai chí dị thập di, tổng cộng 500 truyện[1]. Đây là bản dịch tiếng Việt đầy đủ nhất so với các bộ từ trước đến nay đã xuất bản tại Việt Nam[1].
  • Bồ Tùng Linh, Liêu trai chí dị, 5 tập (Nguyễn Huệ Chi nghiên cứu, tuyển chọn và hiệu đính), NXB Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
  • Bồ Tùng Linh, Liêu trai chí dị, 2 tập (Cao Tự Thanh dịch và chú giải), NXB Văn hóa Sài Gòn, 2005.

Chú thích

  1. ^ a b c Xuất bản Liêu trai chí dị trọn bộ
[n]
















Khác
Tam tự kinh  · Nhị thập tứ sử  · Nho lâm ngoại sử  · Liêu trai chí dị


PHỤ LỤC: 


 >>> Painted Skin (2008)<<<
Họa Bì




- Đạo diễn: Trần Gia Thượng

- Nhà sản xuất:
+ Công ty điện ảnh Trữ Hạ
+ Tập đoàn truyền thông Đại Kim
+ Công ty THNN đa truyền thông Sharon Hồng Kông
+ Tập đoàn điện ảnh Thượng Hải
+ Công ty TNHH tân ảnh Bắc Kinh
+ Công ty Media Corps
+ Công ty TNHH tryền thông văn hóa quốc tế Đĩnh Long Đạt Bắc Kinh

- Chỉ đạo nghệ thuật: Bill Liu

- Chỉ đạo võ thuật: Tung Wei

- Diễn viên:
+ Châu Tấn ~ Tiểu Duy
+ Chân Tử Đan
+ Trần Khôn ~ Vương Sinh
+ Triệu Vy ~ Bội Dung
+ Tôn Lệ
+ Thích Ngọc Võ

- Websites về phim:
+ http://www.imdb.com/title/tt1055300/


Giới thiệu: Vào thời Tần Hán, Đô úy Vương Sinh thống lĩnh đội quân của mình trong một trận chiến với đám cướp sa mạc ở Tây Vực, sau đó cứu sống một người con gái nhan sắc tuyệt trần tên là Tiểu Duy. Thực chất, Tiểu Duy là một con yêu đội lốt người và sống bằng việc ăn tim của loài người. Tiểu Duy đem lòng yêu Vương Sinh nên tìm cách chiếm lấy địa vị của vợ Vương Sinh là Bội Dung. Bội Dung cảm nhận được Tiểu Duy không phải là một người thường, vì vậy cô nhờ đến hai vị cao nhân giúp Vương Sinh thoát khỏi sự mê hoặc của Tiểu Duy. Đây là bộ phim lớn trong năm của điện ảnh Hong Kong dựa theo một câu chuyện ớn lạnh nhất trong cuốn tiểu thuyết Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh và được đạo diễn Trần Gia Thượng nhào nặn với kinh phí là 15 triệu đô cùng với dàn sao góp mặt như Chung Tử Đơn, Trần Khôn, Châu Tấn, Triệu Vy…



 Vài hình ảnh trong phim:


























“Bi Tình Ma Nữ” Triệu Vy chấn cảm nhân tâm  

"Một mái tóc trắng xoã, một khuôn mặt bi phẫn", Triệu Vy trong tạo hình "Ma Nữ Bi Tình" trong bộ phim điện ảnh "Hoạ Bì"-một thể hiện mới của hồn ma theo phong cách phương đông đã tạo được một sức hút khá lớn đối với người xem tại khu triển lãm rộng hơn 48m vuông của liên hoan phim Cannes. Hãy nhìn một cách chăm chú và thật kĩ hình ảnh nhân vật của Triệu Vy, chắc chắn bạn sẽ bị một cảm giác mê hoặc và cả sợ hãi.



Ra mắt 4 Posters mới phim Hoạ Bì tại Liên Hoan Phim Cannes.“Bi Tình Ma Nữ” Triệu Vy chấn cảm nhân tâm

Ngày 14.5 vừa qua, cùng với lễ khai mạc của liên hoan phim Cannes, các hình ảnh của bộ phim "Hoạ Bì" mới cũng đang lần lượt xuất hiện. Mang nét đặc sắc của Trung Quốc, poster mới của phim đã thực sự nổi bật tại Liên Hoan Phim.
Các hình ảnh xuất hiện lần này sẽ có Chân Tử Đan trong tạo hình một hiệp sĩ lang thang, và đặc biệt là Triệu Vy và Thích Ngọc Võ trong tạo hình "Hồn Ma". Tạo hình của Triệu Vy được công bố lần này là tiếp sau Châu Tấn và Chân Tử Đan, đã được công bố trước  đó  tại Liên Hoan Phim Hongkong hồi đầu tháng 3, như vậy tạo hình của 3 nhân vật chính trong phim đã được ra mắt công chúng.
Theo như phóng viên được biết, tại liên hoan phim Cannes lần này, ngoài hình ảnh mới của Triệu Vy, Châu Tấn trong tạo hình yêu tinh Hồ Ly, Chân Tử Đan trong tạo hình hiệp khách hoàn toàn mới cùng với Thích Ngọc Vũ trong tạo hình Thằn Lằn Tinh sẽ lần lượt được công bố.
"Một mái tóc trắng xoã, một khuôn mặt bi phẫn", Triệu Vy trong tạo hình "Ma Nữ Bi Tình" trong bộ phim điện ảnh "Hoạ Bì"-một thể hiện mới của hồn ma theo phong cách phương đông đã tạo được một sức hút khá lớn đối với người xem tại khu triển lãm rộng hơn 48m vuông của liên hoan phim Cannes. Hãy nhìn một cách chăm chú và thật kĩ hình ảnh nhân vật của Triệu Vy, chắc chắn bạn sẽ bị một cảm giác mê hoặc và cả rùng mình sợ hãi.

Hai kiều nữ xinh đẹp của màn ảnh Hoa ngữ sẽ trở thành tình địch của nhau trong bộ phim tình cảm dựa trên một cốt truyện kinh dị, "Hoạ Bì".

Bộ phim được đầu tư kinh phí 15 triệu USD của đạo diễn Trần Gia Thượng dựa theo cốt truyện Hoạ Bì trong bộ truyện kinh dị nổi tiếng của Bồ Tùng Linh vào thế kỷ 17, Liêu Trai Chí Dị, dự kiến sẽ ra mắt khán giả vào cuối năm nay.



Trần Khôn và Triệu Vy vào vai vợ chồng trong Hoạ Bì

Truyện phim kể về một tướng quân (Trần Khôn đóng) trên đường từ Tây Vực trở về nhà đã giải cứu một nữ quỷ đội lốt người (Châu Tấn đóng) khỏi tay bọn cướp và đưa cô về nhà điều trị vết thương. Vợ của vị tướng quân này (Triệu Vy đóng) đã hết lòng chăm sóc cho nữ quỷ nhưng lại bị cô ta hãm hại biến thành một nữ yêu tóc trắng với đôi mắt đẫm máu và còn cướp cả chồng của Triệu Vy.


Triệu Vy đã coi "nữ quỷ" Châu Tấn là chị em thân thiết

Nếu như trong Hoạ Bì cũ, nhân vật nữ quỷ cuối cùng đã bị tiêu diệt bởi một đạo sĩ thì trong phiên bản mới, nữ quỷ sẽ biến mình thành một “hồ yêu bất tử” và phần kết vẫn được các nhà làm phim giữ kín tới phút chót.
Bộ phim tạo sức hút không chỉ bởi diễn xuất tuyệt vời của dàn diễn viên nổi tiếng như Châu Tấn, Trần Khôn, Triệu Vy, Chân Tử Đan, Tôn Lệ…, bởi cốt truyện ly kì pha lẫn rùng rợn mà còn bởi mà còn bởi những cảnh yêu đương nóng bỏng của Trần Khôn và Châu Tấn trên vách đá cheo leo hùng vĩ .


Vậy mà Châu Tấn đã đang tâm biến Triệu Vy thành một ma nữ tóc trắng

Trần Khôn trong một cuộc phỏng vấn đã từng nhận định mặc dù Họa Bì là một bộ phim thương mại với trọng tâm là những cảnh quay kinh dị và võ thuật nhưng phim cũng đề cập tới vấn đề hết sức thực tế của cuộc sống hôn nhân. Nhân vật của Triệu Vy và Châu Tấn trong Hoạ Bì là hiện thân cho hai phần dục vọng trong mỗi con người, một bên là tình cảm vợ chồng khăng khít, còn một bên là những đam mê cuồng nhiệt khi một người thứ ba xuất hiện trong gia đình.


Mặc dù là một bộ phim có nhiều hình ảnh kinh dị nhưng phim cũng tập trung vào vấn đề thực tế của cuộc sống hôn nhân

Những kỷ lục của phim:
Chuẩn bị 2 tháng cho cảnh quay 3 giây
Nếu như trong phiên bản cũ của Hoạ Bì, nhân vật nữ quỷ cởi bỏ lớp da mặt của người phụ nữ xinh đẹp đã để lại cho khán giả ấn tượng mạnh thì phiên bản mới hẳn sẽ mang tới cảm giác kinh sợ bởi đây sẽ là cảnh … “lột da” toàn thân. Và người xem hẳn sẽ còn ngỡ ngàng hơn khi biết để có được cảnh quay chỉ kéo dài 2 đến 3 giây này, đoàn làm phim đã phải mất gần hai tháng sản xuất.
Tiếng hét của Châu Tấn khiến đoàn làm phim khiếp sợ
Tháng 4 vừa qua, Châu Tấn đã vào phòng thu để lồng tiếng cho nhân vật của mình trong Họa Bì. Không gian đang rất yên lặng bị phá vỡ bởi tiếng “gầm như sư tử” của Châu Tấn và tất cả những người có mặt trong phòng thu đều cảm thấy sợ hãi vì kinh ngạc bởi không ai ngờ được một cô gái nhỏ bé như Châu Tấn lạ có thể tạo ra một âm thanh lớn đến thế.

Nhiều cảnh nóng trong ‘Họa bì’ bị cắt

Trên Internet xuất hiện một số tấm ảnh được trích ra từ những đoạn phim bị cơ quan kiểm duyệt cắt bỏ, trong đó có cảnh sex đầy đam mê giữa hai diễn viên chính hay cảnh diễn viên đóng thế Châu Tấn nude.


Cảnh nóng được cho là đẹp và giàu tính nghệ thuật. Ảnh: 163.

Bộ phim Họa bì dựa theo tiểu thuyết Liêu trai chí dị của nhà văn Bồ Tùng Linh được công chiếu tại Trung Quốc đã thu hút một lượng lớn khán giả đến các phòng chiếu.

Tuy nhiên, các nhà quản lý văn hóa nước này đã yêu cầu cắt bỏ những màn nóng bỏng do lo ngại sẽ tác động không tốt đến khán giả. Trong số đó có cảnh Trần Khôn và Châu Tấn âu yếm nhau dưới ánh nắng rọi vào hang động. Cảnh quay này được một số người nhận xét là đẹp và giàu tính nghệ thuật.



Cảnh khỏa thân của diễn viên đóng thế Châu Tấn. Ảnh: 163

Ngoài ra, các nhà làm phim cũng phải cắt cảnh nữ diễn viên đóng thế Châu Tấn nude nửa người.

Họa bì do Trần Gia Thượng (Gordon Chan) đạo diễn với kinh phí lên tới 10 triệu USD. Trong phim, Châu Tấn (Zhou Xun) vào vai một ma nữ mê hoặc chàng Vương Sinh do Trần Khôn (Chen Kun) đóng.


Triệu Vy và Trần Khôn trong phim. Ảnh: 163.

Vợ của Vương Sinh - do Triệu Vy (Zhao Wei) thủ vai - phải tìm mọi cách để cứu chồng thoát khỏi sự quyến rũ của ma nữ. "Én nhỏ" đã phải chịu nhiều "ấm ức" trong suốt thời gian đóng phim để hoàn thành tốt vai diễn hiền thê này

  Những "suối tóc" đầy mê hoặc của mỹ nhân Hoa ngữ

Thứ tư, 20/06/2012 01:00

(2Sao) - Những kiểu tóc buông xõa tuy đơn giản nhưng lại có sức hút mãnh liệt.


Lâm Tâm Như trong Khuynh Thế Hoàng Phi

Khuynh Thế Hoàng Phi là bộ phim đầu tiên Lâm Tâm Như đóng vai trò sản xuất kiêm thể hiện vai nữ chính. Tác phẩm này khi phát sóng đã gây sốt và đem lại cho Lâm Tâm Như không ít lợi nhuận. Ngoài ra, bộ phim còn giúp Lâm Tâm Như giành giải Nhà sản xuất xuất sắc nhất tại LHP truyền hình Trung Quốc.



Trong Khuynh Thế Hoàng Phi, Lâm Tâm Như có vô số tạo hình đẹp mê hồn khi khoác lên mình những bộ trang phục rực rỡ, quyến rũ kết hợp với trang điểm nhẹ nhàng. Đặc biệt, hình ảnh Lâm Tâm Như với suối tóc mềm mại tung bay trên hình ảnh poster hoàn toàn mê hoặc khán giả.

Châu Tấn trong Họa Bì 2







Trong Họa Bì 2, Châu Tấn là nữ diễn viên duy nhất được giữ nguyên vai diễn hồ ly Tiểu Duy của phần 1. Cô nàng Tiểu Duy sở hữu sắc đẹp nghiêng nước, nghiêng thành, khiến cánh mày râu mê mẩn. Bên cạnh những bộ trang phục lộng lẫy, ánh mắt ma mị, điểm nhấn trong tạo hình Tiểu Duy chính là mái tóc dài buông xõa thướt tha.

Lưu Diệc Phi trong Thiện Nữ U Hồn





Có thể nói vai diễn Nhiếp Tiểu Thiện trong Thiện Nữ U Hồn là nhân vật có tạo hình đơn giản nhất trong số các bộ phim cổ trang mà Lưu Diệc Phi đã tham gia. Quần áo cô nàng có phần hơi "tả tơi" và mái tóc cũng để buông xõa tự nhiên. Tuy nhiên, chính sự đơn giản này lại đem đến nét quyến rũ vừa "ma mị" vừa rất trong sáng của nhân vật.

Triệu Vy trong Họa Bì 2

Ngoài Châu Tấn, Triệu Vy cũng có một tạo hình đẹp mê hồn với mái tóc buông xõa trong bộ phim Họa Bì 2. Khoác lên mình bộ đồ chiến binh và đeo mặt nạ bằng vàng, Triệu Vy toát lên vẻ đẹp bí ẩn. Mái tóc buông xõa tung bay trong gió càng làm tăng sự quyến rũ của nữ diễn viên này.

Nhược Anh
(TH)

  Người đẹp Hoa, Hàn đọ quyến rũ với cảnh tắm nóng bỏng

Thứ bảy, 09/06/2012 05:57

(2Sao) - Không hẹn mà gặp, ba người đẹp Châu Tấn, Lâm Chí Linh và Kim Ha Neul đều thu hút sự chú ý của khán giả với những cảnh tắm gợi cảm.


1. Châu Tấn trong Họa Bì 2

Năm 2008, bộ phim điện ảnh Họa Bì từng gây ấn tượng mạnh mẽ cho khán giả với cảnh quay lột da của hồ ly Tiểu Duy (Châu Tấn). Đến Họa Bì 2, các nhà sản xuất hứa hẹn sẽ đem đến cho khán giả phân cảnh lột da hoành tráng hơn nhiều.


















Cảnh lột da này phần nào được hé lộ trong loạt ảnh mới của người đẹp Châu Tấn. Ban đầu, Tiểu Duy (Châu Tấn) ngâm mình trong bồn tắm nước nóng. Làn da trắng mịn màng, ánh mắt hân hoan và nụ cười mỉm của cô khiến khán giả không khỏi ám ảnh. Sau đó, cô nàng từ từ lấy tay lột da, hiện nguyên hình hồ ly.

2. Lâm Chí Linh trong Phú Xuân Sơn Cư Đồ

Phú Xuân Sơn Cư Đồ được coi là "Ông bà Smith phiên bản Trung Quốc". Trong phim, chân dài Lâm Chí Linh và thiên vương Lưu Đức Hoa vào vai một cặp vợ chồng nhưng lại giấu kín thân phận sát thủ của mình. Sau đó, hai người bỗng trở thành đối thủ của nhau khi cùng vướng vào một nhiệm vụ.



Với Phú Xuân Sơn Cư Đồ, Lâm Chí Linh có khá nhiều cảnh quay nóng bỏng. Ngoài phân cảnh ngâm mình trong bồn tắm hoa hồng, chân dài này còn có cảnh quay lãng mạn dưới nước với Lưu Đức Hoa. Tất cả các phân cảnh này đều được chăm chút kỹ lưỡng tình chi tiết và hứa hẹn sẽ làm mãn nhãn khán giả.

3. Kim Ha Neul trong A Gentleman's Dignity

Dùng các cảnh tắm để thể hiện sự suy tư của nhân vật là điều không còn xa lạ trong phim truyền hình Hàn. Xem phim Hàn, nếu thấy một nhân vật nào đó đang buồn phiền hoặc căng thẳng, nhiều khả năng chàng/ nàng sẽ đi tắm để giải tỏa. Trong A Gentleman's Dignity, Kim Ha Neul cũng có một phân cảnh như thế. Đắm mình trong bồn tắm, cô nàng có vẻ mặt đầy đăm chiêu, tâm trạng.


Trên phim, cảnh tắm này có thời lượng khá ngắn. Nhưng để hoàn thành nó, Kim Ha Neul phải ngâm mình trong nước lạnh cả tiếng đồng hồ. Tuy vậy, nhờ sự nhiệt tâm với công việc, Kim Ha Neul đã hoàn thành xuất sắc cảnh quay.

Nhược Anh
(TH)

  Rợn tóc gáy với tạo hình ma quái của Châu Tấn

Thứ tư, 30/05/2012 10:18

(2Sao) - Tạo hình hồ ly Tiểu Duy của Châu Tấn khiến người xem không khỏi rùng mình.


Bộ phim Họa Bì 2 tiếp tục thu hút sự chú ý của khán giả khi công bố loạt ảnh mới của người đẹp Châu Tấn, tiết lộ cảnh quay nhân vật hồ ly Tiểu Duy của cô biến hình. Trong loạt ảnh này, Tiểu Duy tóc bạc trắng buông xõa. Làn da của cô nàng cũng trắng bệnh, nứt nẻ và ánh mắt sắc lạnh, khiến người xem không khỏi nổi da gà.

Trên phim, cảnh quay biến hình của Tiểu Duy chỉ kéo dài vỏn vẹn có một phút nhưng đoàn phim lại rất vất vả mới hoàn thành phân cảnh trên. Vì muốn tạo hình hồ ly của Châu Tấn thật sự khác biệt, hơn 100 nhân viên hóa trang của đoàn phim đã làm việc liên tục trong 60 tuần lễ để tìm ý tưởng. Không chỉ có vậy, trong mỗi buổi quay, người đẹp Châu Tấn cũng phải ngồi bất động 7 tiếng đồng hồ để các chuyên gia hóa trang đắp và vẽ lên người cô.





Bên cạnh đó, đoàn phim cũng phải làm 5 hình nộm của Châu Tấn để phục vụ cho cảnh quay lột da của Tiểu Duy. Để làm được điều này, chuyên viên trang điểm đầu tiên phải đắp thạch cao lên mặt Châu Tấn để lấy mẫu. Sau đó, mỗi hình nộm thạch cao sẽ được vẽ những chi tiết khác biệt, cho thấy các giai đoạn biến hình của hồ ly Tiểu Duy.

Tuy có tên gọi là Họa bì 2 nhưng thực chất bộ phim lần này không phải là phần tiếp theo của bom tấn Họa Bì. Họa Bì 2 sẽ có tuyến nhân vật cũng như cốt truyện hoàn toàn khác so với Họa Bì. Điểm chung duy nhất của hai tác phẩm này chính là đều có nhân vật hồ ly Tiểu Duy.











Họa Bì 2 xoay quanh mối tình tay ba giữa ba nhân vật do Triệu Vy, Trần Khôn và Châu Tấn thể hiện. Trong phim, Tĩnh công chúa (Triệu Vy) vốn là một mỹ nữ nghiêng nước nghiêng thành. Tuy nhiên do một tai nạn không may, một phần khuôn mặt của Tĩnh công chúa đã bị hủy hoại.

Vì muốn nắm giữ trái tim của Hoắc Tâm (Trần Khôn), Tĩnh công chúa đã rơi vào "bẫy" của hồ ly Tiểu Duy (Châu Tấn) và chấp nhận đổi trái tim mình lấy vẻ đẹp gương mặt của Tiểu Duy. Tuy vậy, mọi chuyện không đơn giản như Tĩnh công chúa tưởng....





Bên cạnh tuyến tình cảm của ba nhân vật trên, Họa Bì 2 còn triển khai chuyện tình bi thương giữa Tước Nhi (Dương Mịch) và Bàng Lang (Phùng Thiệu Phong). Bàng Lang  là người chuyên diệt trừ yêu ma, quỷ quái. Ấy vậy mà sau này anh chàng lại đem lòng cảm mến nàng yêu nữ Tước Nhi.

Họa Bì 2 do Trần Quốc Phú sản xuất và đạo diễn Ô Nhĩ Thiện chỉ đạo thực hiện. Phim sẽ công chiếu đồng thời với định dạng 2D và 3D bắt đầu từ 28/6 tới.

Nhược Anh
Theo C

  Mỹ nhân Hoa ngữ “đụng hàng” phong cách: Ai nổi bật hơn?

Thứ hai, 16/07/2012 09:09

(2Sao) - Trang giải trí của Trung Quốc đã đưa ra một thống kê vui các người đẹp Hoa ngữ “đụng hàng” trên phim, từ hoa đán Dương Mịch, Lưu Diệc Phi đến ngôi sao nổi tiếng Phạm Băng Băng đều có mặt trong danh sách này.


Trong thời điểm ngày càng nhiều bộ phim cổ trang được sản xuất, việc trùng lặp đề tài hay bối cảnh là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy mới dẫn đến chuyện các người đẹp xuất hiện trên phim “đụng hàng” nhau chan chát, từ trang phục, biểu cảm, phong thái đến cả hành động cũng có phần trùng lắp. Trang giải trí của Trung Quốc đã đưa ra một thống kê vui các người đẹp Hoa ngữ “đụng hàng” trên phim, từ hoa đán Dương Mịch, Lưu Diệc Phi đến ngôi sao nổi tiếng Phạm Băng Băng đều có mặt trong danh sách này.


Dương Mịch, Trần Hảo không chỉ cùng vẻ mặc trầm tư
và trang phục cũng khá giống


Cảnh thổi kèn lá cũng xuất hiện trong phim không ít


Hồ ly tinh Dương Mịch, Lý Băng Băng,  Từ Hy Viên… đều xinh đẹp trong
trang phục có tông chủ đạo là trắng kết hợp với trang
sức có gắng lông trên tóc


Tuy đã giả trang thái giám nhưng Lâm Tâm Như, Phạm Băng Băng…
vẫn đẹp rạng ngời


Quyến rũ bên đàn tỳ bà


Sáo, Tiêu cũng là đạo cụ được sử dụng thường xuyên




Những điệu múa của các mỹ nhân cũng có phần giống nhau


An Dĩ Hiên, Lưu Diệc Phi, Phạm Băng Băng mê hoặc lòng người khi chơi đàn


Trang phục cô dâu cũng giống nhau đến mấy phần




Cách cầm kiếm, các thế võ cũng rất giống




Vẻ mặt bi thương




Cùng cải trang nam tử oai phong lẫm liệt
Ngân Nga
(Theo C)

  "Hồ ly" Shin Min Ah hóa ma nữ đẹp mê hồn

Thứ tư, 20/06/2012 13:33

(2Sao) - Ngoài ra, cùng ngắm nụ hôn lãng mạn giữa Kim Ki Bum và Park Ye Jin.


1. "Hồ ly" Shin Min Ah hóa ma nữ đẹp mê hồn

Sau bao mong chờ của khán giả, mới đây đoàn phim Arang and the Magistrate đã chính thức công bố tạo hình của người đẹp Shin Min Ah. Trở lại màn ảnh nhỏ sau hai năm vắng bóng, "hồ ly" Shin Min Ah sẽ hóa thân thành hồn ma Arang trong phim. Sau khi chết, linh hồn Arang bị mất trí nhớ và đã trở lại dương gian để tìm hiểu sự thật về cái chết của mình. Trong quá trình đó, cô nàng gặp và nhờ đến sự giúp đỡ của tướng quân Eun Oh (Lee Jun Ki thể hiện).




Shin Min Ah
Arang and the Magistrate đánh dấu lần đầu tiên Shin Min Ah đóng phim của đài MBC và đây cũng là tác phẩm cổ trang đầu tay của cô nàng. Chính vì vậy, người đẹp này rất hào hứng với bộ phim: "Đây là bộ phim truyền hình đầu tiên của tôi sau hai năm nên tôi đặt kỳ vọng rất lớn. Nhân vật hồn ma Arang có nhiều điểm rất mới lạ, khác biệt. Tuy nhân vật này có phần cứng đầu, bất cần và mồm mép nhưng lại không hề đáng ghét".


Lee Jun Ki và Shin Min Ah

Trong Arang and the Magistrate, Shin Min Ah có khá nhiều cảnh hành động thú vị như tranh giành thức ăn, đồ cúng với các hồn ma khác hay cảnh rượt đuổi với thần chết. Chia sẻ về những phân cảnh này, người đẹp cho biết: "Các cảnh quay này giống các cảnh giằng co hơn là những phân cảnh hành động kỳ ảo. Vì vậy, tôi chủ yếu tập trung vào tình trạng của nhân vật Arang hơn là những cảnh hành động".




Lee Jun Ki trên phim trường Arang and the Magistrate
Arang and the Magistrate do đạo diễn Kim Sang Ho chỉ đạo thực hiện và Jung Yoon Jung viết kịch bản. Tham gia cùng với Shin Min Ah trong phim còn có các diễn viên Lee Jun Ki, Yeon Woo Jin, Yoo Seung Hoo... Dự kiến, phim sẽ lên sóng kênh MBC vào cuối tháng 7 tới, nối tiếp tác phẩm I Do, I Do.

2. Kim Ki Bum hôn "đàn chị" Park Ye Jin say đắm

Trong bộ phim truyền hình I Love Italy của kênh hữu tuyến tvN, anh chàng Kim Ki Bum (nhóm nhạc Suju) sánh đôi bên "đàn chị" Park Ye Jin. Tuy Ki Bum trông trẻ hơn Ye Jin rất nhiều nhưng chuyện tình của hai người trong phim vẫn làm rung động trái tim khán giả.

Trong tập phim sắp tới của I Love Italy, cặp đôi này còn trao nhau màn khóa môi say đắm. Ở tập này, Lee Tae Ri (Park Ye Jin) dẫn Geum Eun Dong (Kim Ki Bum) tới nơi mà cô thường đến khi muốn trốn tránh những chuyện ưu phiền. Tại đây, hai người đã thổ lộ tình cảm dành cho đối phương và kế đó trao nhau nụ hôn nồng cháy.

Các cư dân mạng khi nhìn thấy những tấm ảnh trên đã nhận xét: "Chỉ nhìn ảnh hai người hôn nhau thôi mà tôi đã thấy háo hức lắm rồi. Cuối cùng, Park Ye Jin và Kim Ki Bum đã có nụ hôn đầu tiên. Dù có chuyện gì thì tôi nhất định sẽ đón chờ  tập 8 của phim". "Nhìn tuyệt quá. Hai người trông thật đẹp đôi".


Nhược Anh
Theo A, H

  "Cáo chín đuôi" Shin Min Ah: Không chỉ là nữ hoàng quảng cáo

Thứ sáu, 08/10/2010 06:53

(2Sao) - Thể hiện xuất sắc hình ảnh một nàng cáo chín đuôi sôi nổi, trong sáng và đáng yêu trong My Girlfriend Is Gumiho, Shin Min Ah đã chứng minh rằng mình không chỉ là ngôi sao quảng cáo mà còn là diễn viên giỏi.


Trong thời gian vừa qua, nữ diễn viên khả ái Shin Min Ah chiếm được cảm tình của đông đảo khán giả với vai diễn đầy ấn tượng trong bộ phim truyền hình My Girlfriend Is Gumiho (Bạn gái tôi là cáo chín đuôi), đóng cặp với mỹ nam Lee Seung Gi. Bộ phim trên kết thúc với rating hơn 19,9%, vượt qua cả bom tấn hành động Runaway của chàng hoàng tử mắt một mí Bi Rain.










Shin Min Ah trong phim My Girlfriend Is Gumiho

Dù My Girlfriend Is Gumiho đã kết thúc được hơn một tuần nhưng Shin Min Ah dường như vẫn đang "ngây ngất" trong những tình cảm yêu mến các fan: "Hiện tại, tôi rất tốt và thậm chí có thể tham gia vào các dự án khác ngay bây giờ. Tuy nhiên, tôi muốn dừng lại để tận hưởng tình cảm khán giả dành cho mình bởi tôi chưa bao giờ được yêu mến nhiều như thế này".

Shin Min Ah được mệnh danh là Nữ hoàng quảng cáo nhưng nhiều người cho rằng diễn xuất của cô vẫn chưa thực sự xuất sắc. Tuy nhiên, với việc thể hiện ấn tượng hình ảnh một nàng cáo chín đuôi sôi nổi, trong sáng và đáng yêu trong My Girlfriend Is Gumiho, Shin Min Ah đã "phá tan" những nhận định trên.










Shin Min Ah trong phim My Girlfriend Is Gumiho

Trong cuộc phỏng vấn gần đây, nữ diễn viên này chia sẻ: "Tôi muốn được nhiều khán giả biết đến thông qua các bộ phim truyền hình. Ngoài ra, tôi cũng muốn tiến gần hơn về phía người xem và rõ ràng điều ước đó đã thành sự thật nhờ bộ phim My Girlfriend Is Gumiho. Trên phim trường, nhiều người gọi tôi là Gumiho và thậm chí còn đi theo tôi để thấy tôi rõ hơn. Cuối cùng tôi cũng có cảm giác mình đã đến gần hơn với công chúng. Khi nhận thấy mình đã xây dựng được hình ảnh rất thân thiện với khán giả, tôi cảm thấy thực sự thoải mái".

Vì cùng giờ chiếu với đối thủ nặng kí Baker King, Kim Tak Goo nên rating những tập đầu của My Girlfriend Is Gumiho chỉ khoảng từ 10 -12%. Nhưng ở những tập cuối, rating của phim đã có sự bứt phát ngoạn mục, đạt mức 20% ở tập 13 và 14. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của bộ phim chính là diễn xuất tự nhiên của Shin Min Ah.







Shin Min Ah trong phim My Girlfriend Is Gumiho
"Dù có diễn tốt hay không thì tôi nghĩ mọi người đều có thể thấy nỗ lực của mình. Ban đầu, tôi cảm thấy rất lo lắng vì áp lực phải thể hiện thật tốt vai diễn bởi các nhân vật nữ chính trong những bộ phim của hai biên kịch Hong như Fantasy Couple và You Are Handsome đều rất đáng yêu và chiếm được cảm tình của đông đảo khán giả. Các lời thoại cũng như diễn biến của My Girlfriend Is Gumiho đều rất đặc biệt, chính vì vậy mà diễn xuất của tôi có lẽ trông hơi cường điệu. Tuy nhiên, tôi đã đặt rất nhiều tâm huyết trong diễn xuất bởi nếu cảm thấy xấu hổ khi thực hiện các phân cảnh đó thì vai diễn của tôi sẽ thật kỳ cục", Shin Min Ah cho biết.

Shin Min Ah bước chân vào làng giải trí với vai trò người mẫu. Sau đó, cô tham gia nhiều bộ phim nhưng chưa thực sự đạt được nhiều thành công trong nghiệp diễn. Cũng chính vì vậy, ấn tượng của khán giả về cô đơn giản là người mẫu quảng cáo. "Thời gian trôi quá nhanh và tôi nghĩ phải làm điều gì đó đặc biệt để đạt được thành công. Tôi muốn mọi người phải ngạc nhiên với diễn xuất của mình".




Shin Min Ah trong phim My Girlfriend Is Gumiho

Trong phần đầu của My Girlfriend Is Gumiho, một số người cho rằng diễn xuất của Shin Min Ah khá phô và dường như nhân vật Gumiho không thực sự thích hợp với cô. Tuy nhiên, càng về sau Shin Min Ah ngày càng nhập vai tốt  và diễn xuất của cô đã hoàn toàn chinh phục người xem. Các khán giả đã để lại nhiều lời nhắn khen ngợi Shin Min Ah trên mạng như "Mặc dù là phụ nữ nhưng tôi vẫn xem bộ phim này vì Shin Min Ah quá xinh đẹp", hay "Shin Min Ah đã tìm được vai diễn hoàn hảo cho mình".

Shin Min Ah chia sẻ rằng cô rất vui khi đáp ứng được kỳ vọng của khán giả về mặt diễn xuất, một cảm giác hoàn toàn khác so với trước đây. "Ông bà tôi rất thích vai diễn của tôi trong  My Girlfriend Is Gumiho. Cậu cháu 6 tuổi của tôi cũng vậy. Nó thậm chí còn khoe với các bạn ở trường về tôi nữa. Tôi thực sự hạnh phúc khi những người thân có thể tự hào về mình. Tôi nghĩ cuối cùng mình đã đạt được một điều đặc biệt."






Shin Min Ah trong phim My Girlfriend Is Gumiho
Shin Min Ah cũng cho biết rằng cô hy vọng có thể diễn tốt trong các đoạn phim quảng cáo cũng như những phim truyền hình và điện ảnh. "Nếu sau bộ phim này tôi tham gia một đoạn phim quảng cáo, có lẽ mọi người sẽ lại coi tôi là diễn viên quảng cáo. Tuy nhiên, tôi không hề cảm thấy áp lực khi lựa chọn các hoạt động tiếp theo bởi tôi là một ngôi sao quảng cáo. Tôi muốn làm tốt cả các quảng cáo cũng như những bộ phim truyền hình và điện ảnh. Mọi người bắt đầu để ý đến tôi qua các đoạn phim quảng cáo chính vì vậy tôi khó có thể hoàn toàn thoát khỏi hình ảnh này."

Đồng thời với việc được nhiều khán giả yêu mến, Shin Min Ah cũng phải nhận nhiều đánh giá khắt khe. "Tôi nhận được sự yêu mến của nhiều khán giả nhưng đồng thời mọi người cũng bắt đầu đánh giá tôi theo các quan điểm khác nhau. Nhiều người rất quan tâm tới tôi, trong khi một số chỉ trích tôi. Điều này khiến tôi vừa hạnh phúc vừa buồn. Bên cạnh đó, tôi cũng có nhiều điểm yếu và đôi khi cảm thấy không thoải mái trước những nhận định gay gắt của khán giả. Tôi biết rất rõ rằng cuộc đời luôn có thăng trầm, và tôi lo lắng về điều này. Tuy nhiên, điều quan trọng là tôi bằng lòng với mình ở thời điểm hiện tại và đang tận hưởng sự yêu mến mà khán giả".










Shin Min AhLee Seung Gi trong phim My Girlfriend Is Gumiho
Bên cạnh những chia sẻ về bản thân, Shin Min Ah cũng không quên khen ngợi bạn diễn Lee Seung Gi: "Mặc dù Lee Seung Gi ít tuổi hơn tôi nhưng có những lúc tôi coi cậu ấy là "đàn anh". Chẳng hạn như cậu ấy là một người rất đáng tin cận, tính tình dễ chịu và rất có sức hút. Lee Seung Gi rất nổi tiếng ở phim trường, nhiều hơn tôi tưởng rất nhiều".




Shin Min Ah cũng hé lộ rằng cô cảm thấy có trách nhiệm phải diễn tốt khi tham gia My Girlfriend Is Gumiho. Có như vậy, cô mới nhận được sự ngưỡng mộ và tôn trọng từ các fan. Sau bộ phim này, Min Ah thực sự bị cuốn hút với các vai diễn hài hước.

"Khi ngoài 25 tuổi, tôi đã từng mong rằng sẽ cho khán giả thấy hình ảnh một Shin Min Ah trưởng thành hơn bằng việc tham gia các bộ phim bi. Tuy nhiên, khi đóng My Girlfriend Is Gumiho, tôi nhận thấy rằng mình không cần cố gắng phải làm như vậy. Dù nghĩ rằng mình có thể không còn hợp để vào vai các nhân vật dễ thương, đáng yêu nhưng những vai diễn như vậy lại rất có sức hút đối với tôi. Chính vì vậy, tôi quyết định sẽ không đặt tiêu chí nào về thể loại phim mà mình sẽ tham gia. Nếu công ty quản lý đồng ý, tôi muốn nhận nhiều vai diễn thử thách hơn nữa và thậm chí là tham gia các chương trình giải trí."

Cùng ngắm một số hình ảnh đẹp của Shin Min Ah:






















Xuân Phương
Theo KBS







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét